Tuesday, June 23, 2009

Kinh tế Việt Nam sáu tháng cuối năm

Tài chính marketing - Những vấn đề của kinh tế vĩ mô Việt Nam trong nửa sau năm nay, qua góc nhìn của tiến sĩ Võ Trí Thành, viện phó viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương.
So với nhiều nước, kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng éo le nhất, ở chỗ chúng ta chưa thoát khỏi khủng hoảng kinh tế vĩ mô, các rủi ro về vĩ mô còn lớn như lạm phát cao hơn, thâm hụt cán cân thanh toán nhiều hơn, thâm hụt ngân sách cao hơn, gói kích cầu cao; trong khi nguồn lực lại hạn chế.
Ví dụ như Trung Quốc, họ có 2.000 tỉ đôla dự trữ ngoại tệ là điều kiện để Nhà nước can thiệp. Thị trường ta không rộng như họ. Thu nhập đầu người của Việt Nam là 1.000 đôla, so với Trung Quốc là 3.300 đôla. Cách đây 15 năm GDP đầu người của Trung Quốc chỉ gấp rưỡi, nay gấp ba lần chúng ta. Tức là sức cầu trong nước họ cao. Như vậy, điều kiện vĩ mô ta không tốt bằng họ, nguồn lực ta không dồi dào bằng họ. Chi tiết>>

* Bài liên quan
Những dấu hiệu của kinh tế VN

Tại sao các ngân hàng khó huy động lãi suất trung và dài hạn?

Tài chính marketing - Nguyên nhân chính vẫn là do mức lãi suất mà các ngân hàng đưa ra chưa đáp ứng được mức kỳ vọng của các nhà đầu tư.

Theo số liệu thông kê từ NHNN cho thấy, dư nợ cho vay trung dài hạn trên tổng dư nợ của các ngân hàng là khoảng 40%, trong khi nguồn vốn huy động trung dài hạn của các ngân hàng từ dân cư trung bình chỉ khoảng 11%. 

Mặc dù, gần đây nhiều ngân hàng đã tăng mạnh lãi suất huy động (tập trung vào nhóm kỳ hạn trung và dài hạn) và phát hành thêm các loại giấy tờ có giá với lãi suất cao để huy động vốn. Tuy nhiên, việc huy động nguồn vốn này vẫn không hề dễ dàng. 

NH tăng lãi suất để hút vốn

Vừa qua, ngân hàng TMCP HDBank đã chính thức tăng lãi suất huy động lên mức 10,1%/năm cho kỳ hạn 36 tháng. Với mức lãi suất này HDBank đang được xem là ngân hàng có mức lãi suất huy động cao nhất trong hệ thống các ngân hàng thương mại hiện nay.

Trước đó, ngân hàng Thương mại cổ phần An Bình (ABBank) cũng đã đưa ra chương trình huy động mới với lãi suất VND lên tới 9,99%/năm; ngân hàng Việt Nam Thương Tín (VietBank) cũng đã tăng lãi suất huy động VND, tăng từ 0,15% - 0,4%/năm ở các kỳ hạn từ 9 đến 36 tháng, và tăng từ 0,1% - 0,15%/năm cho các kỳ hạn ngắn từ 1 đến 6 tháng.

Gửi tiết kiệm tại ngân hàng TMCP Đại Dương (OCB) từ ngày 16/6, khách hàng sẽ được tặng lãi suất thưởng tùy theo số tiền gửi. Ngoài ra, khi sổ tiết kiệm đến hạn, khách hàng tiếp tục gửi lại (với số tiền không hạn chế) thì sẽ được tặng lãi suất thưởng lên đến 0,50%/năm…

Nhìn chung, so với đầu năm 2009, lãi suất tiền gửi đã tăng bình quân khoảng 2%/năm tùy từng kỳ hạn khác nhau, cho dù NHNN tiếp tục giữ nguyên lãi suất cơ bản.

Cuộc chạy đua lãi suất huy động của các ngân hàng tiếp tục được nhiều chuyên gia ngành ngân hàng dự báo rằng sẽ còn tăng cùng với nhiều chương trình khuyến mãi tiết kiệm được tung ra.

Bên cạnh đó, để đáp ứng nhu cầu về vốn trung và dài hạn nhiều NHTM khác cũng đã tăng cường việc phát hành các loại giấy tờ có giá với lãi suất hấp dẫn.

Chẳng hạn như, ngân hàng Vietinbank đã phát hành chỉ tiền gửi ghi danh đợt 1 năm 2009 với lãi suất khá hấp dẫn (mức cao nhất là 9%) so với mức lãi suất bình quân 7,8-8,4% của các ngân hàng trên thị trường. 

Tổng mệnh giá phát hành của đợt này sẽ là 6.000 tỉ đồng với năm loại kỳ hạn là 6, 9, 12, 24 và 36 tháng. Lãi suất nằm trong khoản từ 7,9% đến 9%/năm, cao hơn khoảng một điểm phần trăm so với lãi suất huy động cùng kỳ hạn của các ngân hàng cổ phần.

Ngân hàng Nhà nước cũng đã đồng ý cho ACB phát hành 11.000 tỉ đồng giấy tờ có giá dài hạn trong năm 2009. BIDV đã phát hành chứng chỉ tiền gửi với các kỳ hạn 1, 2, 3, và 5 năm và mức lãi suất năm đầu tiên dao động ở mức 8,2%-8,6%...

Tại sao lãi suất trung và dài hạn không hút khách?

Việc các ngân hàng tại Việt Nam khó huy động vốn trung và dài hạn không phải là một hiện tượng mới lạ. Trong lịch sử, Việt Nam đã từng trải qua những giai đoạn lạm phát cao và kéo dài, VND bị mất giá mạnh, người dân càng giữ VND lâu càng bị thiệt hại nặng. Người Việt Nam ưu chuộng những tài sản giữ được giá trị qua thời gian như vàng, USD, bất động sản…

Trong khoảng hơn một năm trở lại đây, khi lạm phát cao quay trở lại, VND bị mất giá mạnh so với USD, tâm lý phòng thủ nói trên của người dân lại càng trở nên mạnh mẽ.

Mặc dù theo các dự báo, lạm phát trong năm nay sẽ không quá cao (không vượt quá con số 10%), nhưng các chương trình kích cầu của Chính phủ đang tạo nên những lo ngại về lạm phát trong tương lai, bởi NHNN vẫn đang điều hành chính sách tiền tệ theo hướng linh hoạt, chứ không đặt ra một mức lạm phát mục tiêu nào cả.

Rõ ràng là mức lạm phát gần 20% trong năm 2008 vẫn đang ám ảnh những người có tiền tiết kiệm. Chính vì khó có thể đưa ra dự báo về tỷ lệ lạm phát trong những năm sau (2010, 2011 …), nên việc người dân không mặn mà với các khoản tiền gửi kỳ hạn dài cũng là điều dễ hiểu.

Mức lãi suất 10% hiện nay có thể cao hơn mức lạm phát dưới 10% trong năm 2009, nhưng cũng có thể sẽ không đủ để bù đắp những thiệt hại mà lạm phát trong những năm sau gây ra.

Việc một số kênh đầu tư như: chứng khoán, bất động sản, vàng, USD… cũng là nguyên nhân dẫn đến việc các ngân hàng khó huy động vốn trung và dài hạn.

Mặc dù, các kênh đầu tư này không thường xuyên đem lại lợi nhuận, nhưng khi có “sóng” lại có thể đem lại mức lợi nhuận lớn, nên người dân sẵn sàng gửi tiền tại ngân hàng với kỳ hạn ngắn, cho dù lãi suất thấp, để còn có cơ hội rút tiền chuyển sang các kênh đầu tư nói trên khi cần thiết.

Tuy nhiên, một số chuyên gia cho rằng, cho dù người dân có thể không thích gửi tiền dài hạn do lo ngại lạm phát, tỷ giá, hay do còn có nhiều kênh đầu tư khác, nguyên nhân chính dẫn đến việc các ngân hàng khó huy động vốn trung và dài hạn vẫn là do mức lãi suất mà các ngân hàng đưa ra chưa đáp ứng được mức kỳ vọng của các nhà đầu tư.

Đã được xem là một kênh đầu tư thì mọi việc đều có thể được giải quyết bằng giá và trong trường hợp là các ngân hàng huy động vốn thì điều đó sẽ giải quyết bằng lãi suất.

Nếu lãi suất đủ đáp ứng được kỳ vọng sinh lời của các nhà đầu tư, dù là lãi suất trung hạn hay lại suất dài hạn, thì các ngân hàng vẫn rất dễ dàng huy động được số vốn mà mình mong muốn.

Nhưng một câu hỏi được đặt ra là tại sao các ngân hàng không nâng lãi suất lên thật cao để huy động vốn trung và dài hạn? Câu trả lời là lúc đó ai sẽ vay vốn của các ngân hàng với mức lãi suất còn cao hơn? Rõ ràng là việc nâng lãi suất lên cao không phải là lời giải đáp cuối cùng. 


Vấn đề là phải giảm những rủi ro về lạm phát, tỷ giá… trong tương lai, tức là phải đảm bảo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, để những người có tiền tiết kiệm sẵn sàng cho các ngân hàng vay với lãi suất thấp và trong thời hạn dài.

Hạnh Lệ -nguồn: CafeF

Monday, June 22, 2009

Kinh tế Việt Nam: Chưa đủ yếu tố lạc quan

Tài chính marketing - Chủ trương, ý tưởng tốt mà bộ máy triển khai không tốt thì cũng không đạt hiệu quả như ý muốn. Đây là vấn đề hiệu quả của bộ máy hành chính mà lúc này hơn bao giờ hết, Nhà nước nên tập trung cải thiện để không những tạp điều kiện cho người dân vượt khó mà còn là cơ sở cho sự phát triển lâu dài. Chi tiết>>

Tái cấu trúc kinh tế: Nói thì dễ

Nông nghiệp là lĩnh vực tại Việt Nam ít chịu ảnh hưởng từ khủng hoảng kinh tế thế giới - Ảnh: ReutersTài chính marketing - Tái cấu trúc kinh tế được cho là một cơ hội trong khủng hoảng, nhưng việc thực thi nó không đơn giản như “bóc bánh ăn dần”.

Hồi đầu năm nay, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu và “lên kế hoạch” tái cấu trúc nền kinh tế, “đóng khung” trong một bản đề án được coi là có ý nghĩa quan trọng, là “cú hích” để mở ra “giai đoạn tăng trưởng thứ hai” cho Việt Nam. 

Nhưng trái với dự kiến hoàn thành vào cuối tháng 3/2009, đến nay, “quả bóng” này đã được Vụ Tổng hợp kinh tế Quốc dân (cơ quan chủ trì xây dựng đề án) “ban” gọn ghẽ vào “chân” Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM).

Dù đã “mất đứt” gần nửa năm và gần đây có quan điểm cho rằng Việt Nam đã qua đáy khủng hoảng (mặc dù còn gây tranh cãi), ông Nguyễn Đình Cung, Phó viện trưởng CIEM, người mới đây đã “xung phong” làm trưởng nhóm nghiên cứu đề án, nhận xét rằng mới có rất ít nội dung có giá trị được thực hiện, và đề án gần như vẫn đang “dậm chân tại chỗ”.

Quy tụ nhiều chuyên gia kinh tế hàng đầu của Việt Nam, CIEM dường như khá thận trọng trước đề án này. “Nói về tái cơ cấu đang trở thành một cái mốt, trong khi vấn đề này cực kỳ phức tạp”, một chuyên gia đồng cấp với ông Cung tại CIEM, Tiến sỹ Võ Trí Thành, thẳng thắn nhìn nhận.

Và sự cẩn trọng của vị chuyên gia này có cái lý của nó. Việc chỉ ra những điểm yếu của nền kinh tế Việt Nam không phải là chuyện mới đây, mà đã có nhiều cảnh báo từ hồi năm ngoái, khi tăng trưởng có dấu hiệu mất cân đối và không bền vững.

Những động lực tăng trưởng từ chia sẻ những “tài sản” giá trị nhất của đất nước: đất đai và giá trị doanh nghiệp; từ tăng mạnh đầu tư, tạo nên một nền kinh tế phát triển theo bề rộng, tăng trưởng không tính đến năng suất và chất lượng; hay những mất cân đối về ngành, vùng kinh tế, mất cân đối giữa thành thị và nông thôn, kinh tế đối ngoại,… “điểm mặt” thì dễ, nhưng điều chỉnh thế nào thì không đơn giản.

“Cái khó nhất cả về mặt lý thuyết, đến thực tiễn, là tương tác giữa các bộ phận với nhau, tương tác từ các bộ phận đến tổng thể... Nếu nhìn nền kinh tế dưới góc nhìn giản đơn là tổng cung và tổng cầu thì cũng chưa có nghiên cứu nào xác định được tương tác giữa hai thành phần này”, ông Võ Trí Thành cảnh báo.

Và khi mà chưa xác định được một cách cụ thể sự “tương tác” này như thế nào, đến đâu, thì có thể sẽ dẫn đến tình trạng các nhóm giải pháp được hoạch định để “hóa giải” những điểm yếu khác nhau của nền kinh tế, lại “quay súng” đối chọi nhau, triệt tiêu nhau, ông Thành nêu quan điểm.

Chính ở sự khó đoán định tính tương tác giữa các bộ phần trong nền kinh tế, bàn đến giải pháp càng phải thận trọng. 

Khả năng xác định được hiện trạng cơ cấu nền kinh tế và những điểm bất hợp lý có thể thực hiện được, tuy nhiên, ông Võ Trí Thành vẫn khá dè dặt khi cho rằng “có thể bản đề án chưa giải quyết được vấn đề” mà chỉ dừng lại ở mức “có đóng góp nhỉnh hơn” so với một số khuyến nghị của tổ chức khác.

Trưởng nhóm nghiên cứu, ông Cung, còn có thêm một lo ngại khác, đó là tính khả dụng của bản đề án sau khi đã hoàn chỉnh. 

Dù cho rằng đây là “cơ hội để những chuyên gia kinh tế hàng đầu Việt Nam có thể đóng góp vào quá trình cải cách và đổi mới đất nước”, vị này cũng tiên liệu khả năng công trình nghiên cứu được sự quan tâm đặc biệt của lãnh đạo CIEM có thể chưa “gắn được vào cơ cấu hiện hành”. 

Cũng giống như với người bệnh, nếu chỉ hạ sốt mà không lo chữa cái gốc của bệnh thì họ khó có thể xuất viện. Nhưng với trường hợp của Việt Nam hiện nay, quan điểm “thực tế và thực dụng” đã được ông Cung nói đến, bởi lo ngại nếu đưa những vấn đề quá vĩ mô, liên quan đến một quá trình tái cơ cấu lâu dài, triệt để, thì có thể không nhận được sự “lắng nghe” đầy đủ.

Và rất khó có cách làm toàn vẹn, giữa một bên là chọn những giải pháp cấp bách để có tính khả thi cao, áp dụng được ngay. Hay là chọn những đề xuất tái cơ cấu lâu dài, triệt để, nhưng rất có thể sẽ biến bản đề án thành một “tài liệu tham khảo” dạng đặc biệt.

Anh Quân - VnEconomy

Thursday, June 18, 2009

Tổ chức lại thị trường bất động sản

Tiếp thị bất động sản - Thị trường bất động sản tại TPHCM vẫn chưa có dấu hiệu sáng sủa, thậm chí đang suy giảm nghiêm trọng. Để thoát khỏi tình trạng này, cần có những biện pháp tổ chức lại kiên quyết, kịp thời từ phía Nhà nước.

Có thể thấy thị trường bất động sản nước ta nói chung và trên địa bàn TPHCM nói riêng trong năm 2007, đầu năm 2008 đã tăng trưởng quá nóng, bất bình thường và bộc lộ những mặt yếu kém. Những cơn sốt giá nhà đất, căn hộ do đầu cơ đã đẩy giá giao dịch bất động sản lên quá cao so với giá trị thực, hình thành dấu hiệu “bong bóng” rõ rệt. Hầu hết các giao dịch bất động sản (chiếm khoảng 80-85%) là giữa các nhà đầu cơ với nhau. Đồng thời, đợt sốt giá vật liệu xây dựng kéo dài càng làm cho tình hình thêm trầm trọng. Trong khi đó, nhà ở xã hội, nhà ở cho đối tượng có thu nhập thấp, đặc biệt là loại căn hộ cho thuê, nhà ở thương mại với loại căn hộ nhỏ dưới 45 mét vuông dù có nhu cầu rất lớn nhưng cơ chế pháp lý lại chưa đầy đủ để triển khai thực hiện.

Trong bối cảnh đó, từ đầu tháng 3-2008, Chính phủ tập trung chống lạm phát, thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ đã tác động trực tiếp và mạnh mẽ làm “xì hơi” “bong bóng” thị trường bất động sản. Về tổng quát, thị trường bất động sản TPHCM bị suy thoái nặng nề, nhiều nhà đầu tư phát triển kinh doanh bất động sản trong nước (pháp nhân và thể nhân) đứng trước nguy cơ bị phá sản, vỡ nợ.

Tới đầu năm 2009, tình hình vẫn không khả quan. Đặc biệt, việc bắt đầu triển khai quy định giao dịch bất động sản phải qua sàn; thu thuế thu nhập cá nhân từ kinh doanh bất động sản cùng nhiều yếu tố khác đã làm cho thị trường vào những tháng đầu năm nay bị ảnh hưởng lớn, lượng giao dịch và giá giảm mạnh. Kể cả với phân khúc nhà nhỏ, lẻ, giấy tờ hoàn chỉnh cũng giảm 20% so với 2008.

Các chuyên gia vẫn thường nói với nhau, thị trường bất động sản của ta hiện đang ở trong tình trạng “ba dở dang” và “ba giảm: “Đền bù dở dang; công trình dở dang; dự án dở dang; giá giảm; sức mua giảm; giao dịch giảm”. Trên nền trầm lắng nói chung đó, thị trường có sự phân khúc rõ rệt. Thị trường bất động sản cho phát triển khu công nghiệp vẫn diễn biến bình thường, nhưng chuyển dịch từ khu trung tâm ra địa bàn xa trung tâm hơn. Hoạt động cho thuê văn phòng vẫn đang tiếp tục phát triển mạnh trong khi thị trường nhà ở dân dụng lại đang trầm lắng (có thể tạm coi là đóng băng).

Với thực trạng này, mặt tích cực tạo ra là đã và đang đưa giá cả bất động sản quay trở về giá trị thực của nó. Và đây cũng là thời điểm thích hợp để tái cấu trúc doanh nghiệp, tái cấu trúc đầu tư, đẩy mạnh hợp tác, liên kết, liên doanh giữa các doanh nghiệp trong nước để tồn tại và phát triển; đồng thời là cơ hội để doanh nghiệp có thực lực chuẩn bị quỹ đất đầu tư, nhận chuyển nhượng lại dự án tốt, người dân có điều kiện chọn mua đất nền dự án, căn hộ để ở với giá hợp lý hơn.

Tuy nhiên, thị trường bất động sản tại TPHCM vẫn còn nhiều bất cập cần giải quyết.

Thứ nhất là về pháp lý. Hệ thống quy phạm pháp luật về đất đai, đầu tư xây dựng và kinh doanh bất động sản thiếu đồng bộ, mâu thuẫn, chồng chéo nhau. Bên cạnh đó, thủ tục hành chính để thi hành luật về kinh doanh bất động sản còn nhiêu khê, rườm rà, trùng lắp... gây lãng phí cho người dân và vô tình đẩy họ vào các giao dịch không hợp pháp và đầy rủi ro. Chính điều này đã tạo kẽ hở cho người thừa hành nhũng nhiễu, tiêu cực.

Thứ hai là về quy hoạch. Hiện nay tồn tại nhiều loại quy hoạch, nhiều cấp xây dựng, ban hành nhưng thiếu tính thống nhất, đồng bộ, trách nhiệm pháp lý còn chưa rõ ràng. Điều này vừa tạo ra khó khăn cho quản lý nhà nước, vừa gây lãng phí nguồn lực trong việc thực hiện quy hoạch. Việc mất quá nhiều thời gian để giải phóng, đền bù về mặt bằng, trình duyệt dự án đầu tư và các quy hoạch chi tiết, thiết kế cơ sở, cấp phép xây dựng đã làm nản lòng nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư nước ngoài.

Vấn đề không kém phần lo ngại là nguồn lực tài chính cho đầu tư bất động sản. Các ngân hàng, tổ chức tài chính do ảnh hưởng của chính sách tiền tệ, tài chính thắt chặt vẫn thiếu nguồn vốn dài hạn để tài trợ cho các dự án bất động sản. Chúng ta chưa hình thành tốt hệ thống định chế và cơ chế hỗ trợ cho thị trường bất động sản vận hành, phát triển. Bên cạnh đó hệ thống tài chính công cũng chưa làm tốt vai trò định hướng, hỗ trợ, điều tiết hiệu quả thị trường. Điều này xuất phát từ hàng loạt bất hợp lý trong chính sách thuế, phí, lệ phí bất động sản, khung giá đất, định giá bất động sản...

Có lẽ, đây chính là thời điểm để Nhà nước điều chỉnh hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách điều hành thị trường, chấn chỉnh lại hoạt động của các chủ thể kinh doanh bất động sản.

Cụ thể là Nhà nước cần thống nhất về cơ quan quản lý thị trường và hoàn thiện cơ chế, chính sách, văn bản pháp quy quản lý hiệu quả đối với thị trường bất động sản; thống nhất, minh bạch hóa về quy hoạch phát triển đô thị; nhất thể hóa cơ quan làm quy hoạch; tránh chồng chéo, xung đột về quy hoạch.

Tiếp tục hỗ trợ khơi thông các nguồn vốn đầu tư cho thị trường bất động sản từ các nguồn: trong nước, nước ngoài, định chế tài chính quốc tế. Vấn đề là các tổ chức này cần xác định rõ những dự án bất động sản khả thi, hiệu quả để tài trợ, phát triển tín dụng chứ không nên “đóng cửa” toàn diện với thị trường bất động sản để tạo hệ số an toàn tín dụng như hiện nay.

Cần khẩn trương thống nhất một “giấy chứng thư” cho đất và nhà; quy định rõ một cơ quan có thẩm quyền cấp giấy và phải minh bạch, đơn giản hóa thủ tục, giảm lệ phí cấp chứng thư.

Nếu thực hiện nhanh chóng và hiệu quả các biện pháp trên sẽ góp phần củng cố niềm tin, động lực và quyết tâm của các nhà đầu tư, đưa thị trường bất động sản sớm thoát khỏi tình trạng suy giảm hiện nay

Tuesday, June 2, 2009

“Hiến kế” chặn nguy cơ tái lạm phát

Tài chính marketing - Lạm phát đang là nguy cơ ở phía trước, khi hàng chục ngàn tỷ đồng đầu tư công đang chờ giải ngân sẽ đổ vào lưu thông.

Trong khi đó, giá cả một số mặt hàng thiết yếu như xăng đã tăng, tăng trưởng tín dụng cũng đã có biểu hiện tăng và còn có thể lên nữa khi thực hiện hỗ trợ lãi suất qua vốn vay nhiều hơn trong thời gian tới. Trên thế giới, giá dầu đang tăng trở lại và có thể sẽ kéo theo một loạt giá cả hàng hóa khác biến động theo, tạo nên mặt bằng giá mới... 

Nguy cơ tái lạm phát lần này còn đáng ngại hơn cả tình thế năm 2008, vì thời điểm đó dù tăng giá nhưng GDP vẫn tăng trưởng khá, trên 6%. Dù còn nhiều tranh cãi về khả năng trở lại của lạm phát sẽ ra sao, nhưng các ý kiến của nhiều chuyên gia, nhà quản lý đều tập trung “hiến kế” để tránh rơi vào tình trạng này.

Chính phủ không chủ quan

(Ông Vũ Văn Ninh, Bộ trưởng Bộ Tài chính)

"Chính phủ chưa bao giờ chủ quan trong điều hành. Giờ đây, khi kích cầu, phải đối mặt với nguy cơ lạm phát có thể quay trở lại thì tinh thần của chúng ta cũng vậy. Chúng ta mới thực hiện kích cầu trong thời gian ngắn nhưng đã có biểu hiện tác động tốt. Gói kích cầu đã giải quyết khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp, hỗ trợ cho doanh nghiệp mạnh phát triển lên, làm đầu tầu thúc đẩy nền kinh tế.

Nhưng, gói kích cầu sẽ phản tác dụng nếu chúng ta chi tiêu không hiệu quả và rất dễ gây ra lạm phát. Hiện nay, hạ tầng của chúng ta đang rất yếu kém và bất cập, nếu đầu tư vào lĩnh vực này hiệu quả thì sẽ thúc đẩy tăng trưởng, lập lại được cân đối vĩ mô và có thể kiểm soát được lạm phát. Chính vì thế, Chính phủ đặt ra mục tiêu vừa ngăn chặn suy giảm kinh tế, bảo đảm tăng trưởng và phòng ngừa lạm phát.

Tính chất của gói kích cầu là không phải chỉ giải quyết những vấn đề trước mắt mà trong đó Chính phủ đã mở rộng ra giải quyết cho vấn đề dài hạn. Ví dụ, trước đây chỉ hỗ trợ cho vay vốn lưu động thì sau đó mở ra cho vay cả những dự án đầu tư. Chính những dự án đầu tư là cơ hội, điều kiện cho các doanh nghiệp tái cơ cấu, nâng cao sức cạnh tranh của mình trong thời gian dài hạn. Tầm nhìn của Chính phủ đã vượt xa hơn việc khôi phục, duy trì tăng trưởng kinh tế mà đã tính đến một phương án dài hơi hơn là cơ cấu lại nền kinh tế.

Khó khăn thách thức trong những tháng còn lại của năm 2009 là rất lớn, đòi hỏi phải luôn theo sát tình hình, chủ động ngăn ngừa lạm phát. Chính phủ và các cơ quan của Chính phủ luôn theo dõi sát diễn biến giá cả thị trường thế giới và trong nước, nhất là diễn biến giá cả các mặt hàng quan trọng (dầu thô, xăng dầu tinh chế, sắt thép...).

Thực hiện nhất quán việc điều chỉnh giá phù hợp với nguyên tắc thị trường đối với các loại hàng hoá và dịch vụ Nhà nước còn định giá (điện, than, nước sạch cho sinh hoạt,...) theo lộ trình đã đề ra, đảm bảo hài hoà giữa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và các đối tượng thụ hưởng". 

Tiêu tiền chậm sẽ là hiểm họa!

(Ông Hà Văn Hiền, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội)

"Tiền đầu tư cũng như tiền hỗ trợ cho các đối tượng chính sách, các doanh nghiệp phải được giải phóng nhanh nhất để kịp thời giúp các đối tượng này tháo gỡ khó khăn. Mặt khác, do số tiền cung ứng đưa vào lưu thông rất lớn, nếu triển khai chậm và không có giới hạn về thời gian thì khi kinh tế phục hồi sẽ là một tiềm ẩn gây lạm phát cao. 

Các gói kích thích kinh tế phải bảo đảm nguyên tắc ngắn hạn và cần phải định khung thời gian cho các hạng mục chi trong gói kích thích kinh tế trên cơ sở phân tích dự báo khả năng phục hồi của nền kinh tế và đánh giá tiến độ giải ngân của các hạng mục chi này". 

Phải làm rõ trọng tâm của gói kích cầu

(Ông Nguyễn Đức Kiên, Phó chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng)

"Nếu đặt những con số trong báo cáo của Chính phủ trong cả kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 thì chúng ta sẽ bình tĩnh hơn trong việc đánh giá thực chất của nền kinh tế và quyết định có nên tiếp tục thực hiện các giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế như hiện nay hay không.

Lo ngại lớn nhất chính là hiệu quả thực hiện gói kích cầu vì số tiền quá lớn, chiếm đến gần 10% GDP nếu không được sử dụng hiệu quả sẽ tạo áp lực rất lớn đối với nền kinh tế trong giai đoạn tiếp theo, mà lạm phát là một nguy cơ khó tránh.

Chúng ta cần tập trung xác định rõ nền kinh tế nước ta đang đứng ở đâu trong chuỗi khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Theo báo cáo của Chính phủ thì suy thoái kinh tế của nước ta đã đến đáy. Và như vậy, mô hình phát triển của nền kinh tế sẽ là mô hình chữ V, tháng 3.2009 khủng hoảng xuống đến đáy và bật lên ngay. 

Quý 1, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta là 3,1%, nếu cả năm là 5% thì cuối năm sẽ là 7-7,5%, tức là tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ trở lại với mức tăng trưởng trước khủng hoảng, cũng có nghĩa là đến cuối năm nay, kinh tế nước ta sẽ phục hồi.

Hiện nay Chính phủ đang điều hành vĩ mô bằng hai chân: vừa ngăn chặn suy thoái, phát triển bền vững vừa bảo đảm an sinh xã hội. Nếu nhìn vào tổng chi ngân sách cho các gói kích cầu thì an sinh xã hội đã được đầu tư khoảng 16.700 tỷ đồng. 

So với gói 17.000 tỷ hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp là gần tương đương nhau nhưng phương thức sử dụng nguồn tiền đó thì chưa ổn. Vì thế, cần phải xác định rõ trọng tâm gói kích cầu là nhằm vào hỗ trợ nông dân, hỗ trợ sản phẩm hay là hỗ trợ doanh nghiệp? 

Chính sách hình quả mít, tức là cái gì cũng có nhưng không rõ trọng tâm, trọng điểm sẽ làm hạn chế hiệu quả của gói kích cầu. Nếu làm rõ được điều này, tôi tin rằng Quốc hội và Chính phủ sẽ thống nhất được cần phải làm gì trong giai đoạn phát triển tiếp theo và nền kinh tế chắc chắn sẽ không thể vừa trì trệ, vừa rơi vào tình trạng tái lạm phát". 

Sẽ “thoát nạn” nếu điều hành sát, đúng, trúng

(Ông Cao Sỹ Kiêm, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính tiền tệ Quốc gia)

"Khả năng lạm phát tại thời điểm này thì chưa, vì chúng ta đang tập trung chống suy giảm kinh tế. Mọi mục tiêu đều để kích cho sản xuất, tiêu dùng để vực nền kinh tế lên. Nhưng nguy cơ lạm phát thì có nếu những số tiền kích cầu chúng ta giải ngân không đúng, không đủ hoặc không sát địa chỉ. Khi gói kích cầu đi qua, bội chi ngân sách cao, nợ xấu tăng lên, lạm phát trở lại.

Nếu Chính phủ chỉ đạo sát, đúng, trúng và kiểm tra, kiểm soát, thường xuyên xử lý những vấn đề nảy sinh; có những biện pháp che chắn, chủ động ngay từ bây giờ (ví dụ đưa tiền ra thì phải rút tiền về khi đưa kích cầu ra thì phải tạo khả năng mua)... thì có thể kích cầu thành công và chặn được lạm phát trở lại.

Còn một vấn đề khác đặt ra đối với nguy cơ tái lạm phát là ngoài việc kìm chỉ số CPI dưới 10% thì có thêm những giải pháp hỗ trợ nào khác? Theo tôi, việc phát hành trái phiếu của Chính phủ cũng là một giải pháp hay, vừa có thêm tiền để kích cầu, vừa giải quyết rất tốt vấn đề lạm phát. Việc phát hành thêm trái phiếu Chính phủ, nếu được triển khai tốt là làm lợi cho dân.

Bởi, hiện nay, nguồn vốn trong nhân dân còn rất nhiều do người dân chưa dám tiêu hoặc chưa mạnh dạn đầu tư cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Lúc này, Nhà nước đứng ra huy động, tiêu hộ dân và trả lãi cho họ bằng cách huy động trái phiếu Chính phủ là hợp lý. Nguồn tiền nhàn rỗi này sẽ được hút về và đẩy ra phục vụ cho hoạt động tăng trưởng kinh tế. Biện pháp này vừa góp phần chống suy giảm kinh tế vừa giải quyết rất tốt vấn đề chống lạm phát". 

Cần tỉnh táo trước độ trễ của chính sách

(Bà Phạm Thị Loan, Chủ tịch Hội đồng Quản trị, Tổng giám đốc Tập đoàn Việt Á)

"Trong tình hình hiện nay, nguy cơ lạm phát đang tới rất gần khi kích cầu và bội chi quá cao. Chính phủ đề nghị tăng mức bội chi ngân sách lên 8% trong khi những năm trước chỉ ở mức 5% và dưới 5%. Mặt khác nếu tính cả trái phiếu Chính phủ vào bội chi ngân sách thì thực tế bội chi ngân sách dự kiến sẽ tăng trên 10%. Như vậy nguy cơ tái lạm phát là việc nhãn tiền và đồng tiền Việt Nam sẽ mất giá. 

Tôi đề nghị xem lại mức bội chi này. Chúng ta chỉ nên ở mức tối đa 7% bao gồm cả trái phiếu Chính phủ. Chính phủ nên xem xét giảm bớt một số khoản chi tiêu không cấp bách, tăng cường thúc đẩy một số khoản thu và xem lại những miễn, giảm cho một số đối tượng chưa cần thiết. Không nên để bội chi ngân sách quá 6%, cần cân đối nguồn thu và chi, nếu không sẽ dẫn tới hệ lụy trong tương lai như nguy cơ lạm phát tăng cao.

Cùng đó, kích cầu là rất cần thiết nhưng phải có sự phối hợp giữa chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và chính sách ưu đãi, chứ không thể nước khác kích cầu thì chúng ta cũng kích cầu tương tự. Chính phủ đã đề ra 5 giải pháp chống suy giảm kinh tế. Một trong những giải pháp quan trọng nhất là chính sách tài chính tiền tệ để kích cầu đầu tư, tiêu dùng. Một lượng tiền lớn sẽ được đưa vào doanh nghiệp, người dân để chi tiêu và đầu tư. Đó chính là một trong những nguyên nhân hết sức quan trọng khiến lạm phát có nguy cơ quay trở lại.

Có ba nguyên nhân gây ra lạm phát là tổng cầu tăng, chi phí đẩy tức là chi phí đầu vào lớn và nguồn tiền trong lưu thông quá lớn. Trong 3 nguyên nhân thì nguyên nhân tiền tệ là lớn nhất. Việc kích cầu bằng gói thứ nhất 17.000 tỷ đã bắt đầu ngấm vào doanh nghiệp. Các gói kích cầu khác như cho vay hỗ trợ lãi suất trung và dài hạn bắt đầu triển khai, đầu tư công sẽ rất mạnh trong những tháng tiếp theo. Do chính sách có độ trễ nên lượng tiền tung ra cho nền kinh tế những tháng tiếp theo sẽ lớn hơn và cần hết sức tỉnh táo trước trạng thái này". 

Trì trệ + Lạm phát = SOS!

(Ông Trần Du Lịch, Phó đoàn đại biểu Quốc hội Tp.HCM)

"Một số đại biểu Quốc hội có phát biểu, có nguy cơ tái lạm phát hay không? Nếu CPI năm 2009 tăng trên 10%, trong khi CPI của 5 tháng đầu năm 2009 chỉ tăng 2,12% so với tháng 12/2008, thì kinh tế Việt Nam sẽ bị xem là tái lạm phát. 

Nếu không kìm được chỉ số này dưới 10%, tôi cho rằng, vấn đề khác nẩy sinh còn nghiêm trọng hơn tái lạm phát, đó là vấn đề trì-lạm của nền kinh tế. Tức là vừa trì trệ vừa lạm phát, đây là một hiện tượng cực kỳ khó trị vì nó vô hiệu hóa tất cả các công cụ, chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá.

Khái niệm “trì-lạm” được ghép của hai khái niệm “trì trệ” và “lạm phát” để chỉ một nền kinh tế diễn ra cùng lúc hai hiện tượng vừa lạm phát vừa trì trệ, mà thông thường hai hiện tượng này xảy ra ở hai thời điểm khác nhau và thường trái ngược nhau.

Nguyên nhân sâu xa xảy ra lạm phát của nền kinh tế nước ta là do cơ cấu kinh tế thiếu cạnh tranh, năng suất thấp, chi phí sản xuất cao, lệ thuộc rất lớn giá cả thị trường thế giới... nên nguy cơ lạm phát luôn luôn rình rập khi có yếu tố xúc tác. Nếu không kiểm soát chặt chẽ dòng vốn đang “bơm” vào nền kinh tế ở cả hai kênh tín dụng - ngân hàng và ngân sách, thiếu cận thận trong việc tăng giá cả các loại dịch vụ công, thiếu giải pháp hiệu quả ngăn chặn sự “lạc đường” của các nguồn vốn chảy vào đầu cơ thay vì đầu tư, thì nền kinh tế có nguy cơ tái lạm phát".

Theo Lê Châu - VnEconomy

Kinh tế 5 tháng đầu năm 2009

Kinh te Viet Nam - nam thang dau nam 2009Tài chính marketing - LTS TBKTSG: Giữa tuần này Quốc hội sẽ thảo luận tại hội trường “Báo cáo đánh giá bổ sung kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2008 và tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2009 trong những tháng đầu năm”.

Các đại biểu cũng sẽ cho ý kiến về các vấn đề lớn của nền kinh tế như điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng, mức bội chi ngân sách...

Nhân dịp này TBKTSG đã mời một số chuyên gia kinh tế đưa ra những nhận định tổng quan về tình hình kinh tế nước ta sau năm tháng đầu năm.


Cần phân tích đúng tình hình kinh tế sắp tới

TS. Lê Đăng Doanh

1. Nguy cơ tái lạm phát ngày càng bộc lộ rõ: chỉ số giá tiêu dùng tháng 5 tăng 0,44%, nhiều mặt hàng đã tăng giá từ 7-15% do tăng giá đầu vào như điện, nước, xăng dầu và do yếu tố tâm lý “tăng lương”.

Chính sách tiền tệ và tín dụng nới lỏng nhằm phục vụ chính sách kích thích kinh tế đã đẩy nhanh tốc độ gia tăng của các phương tiện thanh toán: dư nợ tín dụng tính đến cuối tháng 4-2009 tăng 11,16% so với tháng 12-2008, tổng phương tiện thanh toán tăng 11,4% so với mức tăng 5,53% của cùng kỳ năm trước trong khi GDP quí 1 chỉ tăng 3,1%.

Tốc độ đưa tiền ra lưu thông đang tiếp tục được đẩy mạnh với tổng phương tiện thanh toán tháng 4 tăng 3,43% so với tháng 3-2009, dư nợ tín dụng tăng 4,86% so với tháng 3-2009. Xu thế này đang tiếp tục trong tháng 5 nếu không có biện pháp điều chỉnh kịp thời. Chắc chắn rằng sau một quí nữa, khối lượng phương tiện thanh toán gia tăng này sẽ được phản ánh qua mức tăng giá.

Trong khi kinh tế thế giới có những dấu hiệu hồi phục nhất định, tốc độ suy giảm sản xuất chậm lại có thể dẫn đến giá dầu thô và giá nguyên vật liệu sẽ tăng trở lại do cân đối cung - cầu trên thị trường thế giới thay đổi, thậm chí chỉ do tâm lý đầu tư và tiêu dùng có cải thiện đã có thể dẫn đến tăng giá, kéo theo giá xăng dầu, phân bón, chất dẻo, hóa chất mà nước ta nhập khẩu sẽ tăng lên.

Nhập khẩu sẽ tăng ngay do yếu tố giá trong khi xuất khẩu sẽ khó có thể tăng theo cùng nhịp độ vì giá xuất khẩu không thể dễ dàng được nâng lên và khối lượng xuất khẩu còn tùy thuộc nhiều vào sự hồi phục của các thị trường lớn của chúng ta như Mỹ, EU, Nhật, đều đang suy thoái nặng.

Nguy cơ nhập siêu tăng và sức ép lên cán cân vãng lai và tỷ giá đồng tiền Việt Nam là khó tránh khỏi. Nếu điều này diễn ra thì đây là sự trùng hợp bất hạnh giữa chính sách tiền tệ nới lỏng trong nước và sự tăng giá nguyên vật liệu trên thế giới, điều đã diễn ra trong quí 1 và 2 năm 2008 và nước ta sẽ phải đối mặt với nguy cơ tái lạm phát mới.

Điều này nhất thiết phải tránh và còn có thể hạn chế và tránh được, nếu có sự điều chỉnh kịp thời.Cũng cần tính đến tác động của hàng Trung Quốc đang đổ vào thị trường nước ta với quy mô chưa từng thấy, thậm chí sẽ có thể còn tăng lên nếu chúng ta không có đối sách có hiệu quả và sự cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu với các mặt hàng tương tự của nước ta còn gay gắt hơn. Trung Quốc hồi phục sớm hơn và cải cách mạnh mẽ hơn cũng sẽ thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc.

2. Trong khi ghi nhận nỗ lực của Chính phủ ngăn chặn suy giảm kinh tế, dư luận không thể không ghi nhận những thiếu sót, yếu kém trong điều hành giữa các bộ, các địa phương trong thực hiện chính sách.

Xin đơn cử vài ví dụ:“Gói kích cầu” có quy mô, nếu tính ra đô la Mỹ, tương đương 9 tỉ đô la sau khi đã được nâng từ 1 tỉ đô la lên 6 tỉ đô la, cần được công bố tường minh và đầy đủ như một chỉnh thể, có phân biệt rõ giữa các biện pháp kích thích và các dự án đầu tư đã được quyết định từ trước để doanh nghiệp biết có bao nhiêu biện pháp kích thích, địa chỉ của cơ quan chịu trách nhiệm là ở đâu.

Do được công bố qua nhiều lần, được bổ sung tại những thời điểm khác nhau nên hình thù, quy mô chính xác của “gói kích cầu” hiện nay chưa được công luận hiểu rõ.Ngoài ra, đã đến lúc Quốc hội cần có nghiên cứu và đánh giá độc lập về thực chất của cam kết đầu tư nước ngoài, chất lượng thẩm định những dự án có quy mô hàng tỉ đô la về các mặt hiệu quả kinh tế, môi trường, về sự phù hợp giữa dự án đầu tư và quy hoạch ngành, vùng của nền kinh tế quốc dân.

Ngày càng có những dấu hiệu cho thấy không ít dự án FDI đã khai tăng vốn, tăng quy mô để lợi dụng xin đất (song lại rất phù hợp với tâm lý “thành tích” và “nhiệm kỳ” của quan chức địa phương), dẫn đến những con số cam kết FDI cao kỷ lực.

Cam kết thực hiện dự án của chủ đầu tư thiếu tính ràng buộc pháp lý chặt chẽ, không ít nhà đầu tư nhận cả trăm héc ta đất nay không thực hiện (như ở Phú Yên) hay chậm thực hiện (ở rất nhiều nơi trong cả nước), để cả ngàn héc ta đất bị hoang hóa trong khi nông dân không có đất canh tác. Có rất nhiều vấn đề cần phân tích đánh giá chính xác trên cơ sở lợi ích lâu dài của nền kinh tế quốc dân đằng sau những con số được công bố.

Cũng cần xem xét tình hình thực hiện việc mở rộng thủ đô Hà Nội đã đem lại tiến bộ gì cho quản lý kinh tế, quy hoạch và đời sống của người dân. Nhiều doanh nghiệp phản ánh thực trạng không ít sở, ban ngành của bộ máy chính quyền Hà Nội mở rộng cho đến nay vẫn có quá nhiều phó giám đốc sở, quá nhiều trưởng, phó phòng và công việc bây giờ còn chậm, chậm hơn khi chưa sáp nhập. Tình trạng úng ngập, kẹt xe, ô nhiễm môi trường không hề có cải thiện nếu không nói là còn trầm trọng hơn.

Bộ Công Thương cũng cần giải trình trước Quốc hội căn cứ để cuối năm 2008 Bộ đề nghị Quốc hội thông qua chỉ tiêu tăng xuất khẩu 13% cho năm 2009 trong khi các dấu hiệu suy giảm cũng đã rất rõ ràng và nay lại đề nghị Quốc hội điều chỉnh xuống còn tăng 3%!

3. Cần xây dựng một kế hoạch 2010 và phần nào cả 2011 phù hợp với yêu cầu vượt qua khủng hoảng, tái cấu trúc nền kinh tế và cải cách mạnh mẽ hệ thống tài chính-ngân hàng, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, cải cách hành chính để tạo ra xung lực mới, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp.

Hệ thống doanh nghiệp cần được tái cơ cấu theo tín hiệu của thị trường thế giới đang thay đổi và có sự chuyển dịch. Các doanh nghiệp phá sản hay “chết lâm sàng” cần được tái cấu trúc, sáp nhập hoặc mua lại để tái sinh các doanh nghiệp đó dưới dạng một doanh nghiệp mạnh hơn. Các chính sách đầu tư cần điều chỉnh để hỗ trợ quá trình này.

Chúng ta trân trọng những nỗ lực của Chính phủ, những thành tựu trong nông nghiệp, sự ấm lên của xây dựng, song tình hình kinh tế, đời sống xã hội đòi hỏi phải có chuyển biến mạnh hơn trong chất lượng điều hành và phối hợp giữa các bộ và các tỉnh, thành phố. Bài học đẩy mạnh cải cách trong khủng hoảng cách đây 10 năm khi Quốc hội ban hành Luật Doanh nghiệp 1999, Chính phủ lập Tổ Công tác chỉ đạo việc thực hiện có hiệu quả, bỏ 186 giấy phép con, thể hiện sự đột phá về tư duy kinh tế và cải cách hành chính cần được xem xét để vận dụng cho tình hình hiện nay.

Thất nghiệp và lạm phát

GS. Trần Hữu Dũng

Tôi nghĩ vấn đề lớn nhất của Việt Nam hiện nay là vấn đề thất nghiệp, sau đó là nguy cơ tái phát lạm phát (nguy hơn nữa là thất nghiệp và lạm phát có thể sẽ xảy ra cùng lúc). Sự suy thoái của kinh tế Việt Nam phần lớn là do sự suy thoái của toàn thế giới, Nhà nước tiêu tiền để kích cầu nội địa tuy cũng có tác động phần nào nhưng sẽ không là bao vì muốn thật sự có kết quả thì số tiền đó phải là rất lớn, mình không có đủ. Nếu phát hành thêm tiền để cho đủ thì lại sớm đi vào lạm phát như đã nói ở trên. Với ngân sách hạn hẹp của chúng ta thì số tiền hiện nay nói là để “kích cầu” nên dùng để lo cho những vấn đề y tế, xã hội (và giáo dục nữa!) thì có hiệu quả hơn cho phát triển dài hạn. Tránh những biện pháp vá víu tạm thời mà hiệu quả lại rất ít. Về ngắn hạn, hãy mong rằng kinh tế thế giới nhanh chóng phục hồi, kéo chúng ta ra khỏi tình trạng suy thoái hiện nay.

Để tăng hiệu quả kích cầu

TS. Vũ Hoàng Linh

Dù gói kích cầu ban đầu đã được công bố từ năm 2008 nhưng mãi cho tới mấy ngày gần đây các chi tiết cấu thành của gói kích cầu mới được công bố. Và ngay cả các chi tiết này cũng có sự lẫn lộn giữa nguồn tạo vốn và mục đích sử dụng.

Ví dụ trong gói tín dụng tương đương 8 tỉ đô la mới được công bố thì có 20.000 tỉ đồng phát hành trái phiếu chính phủ mới. Nhưng việc phát hành bổ sung trái phiếu chính phủ chỉ là nguồn tạo vốn chứ không phải là kích cầu.

Thêm nữa, mặc dù đã có rất nhiều ý kiến về việc cho vay hỗ trợ lãi suất có thể dẫn tới đảo nợ (hay vốn từ các khoản vay đổ vào thị trường chứng khoán) nhưng Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa có biện pháp để giải quyết vấn đề này.

Một mặt vẫn tuyên bố không cho phép đảo nợ nhưng mặt khác lại không biết làm thế nào để ngăn cản tình trạng này. Những thông tin xung quanh các khoản cho vay không được công bố rộng rãi khiến cho người ta không thể đánh giá được chính xác mức độ đảo nợ hay hiệu quả của kích cầu bằng cho vay hỗ trợ lãi suất.

Để cải thiện chính sách kích cầu, theo tôi, cần làm một số việc như sau:

- Đánh giá nghiêm túc hiệu quả của các chính sách kích cầu đã được tiến hành cho tới nay.

- Tránh các nhầm lẫn không đáng có như coi phát hành trái phiếu chính phủ cũng là một phần của chính sách kích cầu.

- Đầu tư công của Nhà nước nên hướng tới việc đầu tư cơ sở hạ tầng, nhất là cơ sở hạ tầng ở nông thôn vốn bị bỏ quên lâu nay; và đầu tư vào khoa học công nghệ, giáo dục, y tế, chất lượng nguồn nhân lực. Những lĩnh vực đầu tư này không những làm tăng cầu của Chính phủ mà còn có tác dụng dài hạn trong việc tạo ra một lượng vốn con người, vốn công nghệ cần thiết cho sự phát triển trong tương lai. Trong đầu tư không chỉ quan tâm tới số lượng đầu tư theo nghĩa làm sao giải ngân thật nhanh, chi tiêu thật mạnh mà cần quan tâm tới chất lượng đầu tư.

- Bên cạnh nông dân, cũng cần có các chương trình hỗ trợ cho người thu nhập thấp và trung bình và chịu thiệt hại nhiều bởi khủng hoảng để tăng tiêu dùng xã hội, tức kích cầu tiêu dùng. Có một số nhóm đối tượng có thể xác định được khá dễ dàng như các công nhân mất việc làm ở thành phố, nhân công ở các làng nghề xuất khẩu... Sớm triển khai rộng rãi chương trình bảo hiểm thất nghiệp và an sinh xã hội ở nông thôn.

- Một khía cạnh khác không hoàn toàn liên quan: trong việc thiết kế gói kích cầu cần có sự tham gia của các nhà kinh tế.
nguồn: TBKTSG