Friday, August 3, 2012

Thăm cơ ngơi giản dị của tỷ phú Warren Buffett

[Thư viện marketing] Warren Buffett, một trong những người giàu nhất thế giới và cũng là tỷ phú không giống như những tỷ phú khác. Quan điểm cá nhân của Buffett về nơi ở rất tiết kiệm, giản dị.

Ông không chỉ cam kết dành 99% tài sản của mình cho công việc từ thiện mà còn cho rằng người giàu nên bị đánh thuế nhiều hơn. Không chỉ vậy, sự khác biệt của ông còn thể hiện ở chính nơi ở, nơi nghỉ dưỡng cũng như nơi làm việc của ông.

Dưới đây là những bức ảnh về ngôi nhà lâu năm và nơi nghỉ dưỡng của tỷ phú này.

Nơi làm việc đơn sơ


Trụ sở của Tập đoàn toàn cầu khổng lồ Berkshire Hathaway chỉ chiếm một tầng của một tòa nhà văn phòng ở Omaha và đáng ngạc nhiên hơn là phòng làm việc của Buffett không có máy tính xách tay, máy tính điện tử hay thậm chí cả bảng giá chứng khoán như tưởng tượng của mọi người

Ngôi nhà cũ kỹ


Thay vì sở hữu cùng lúc nhiều ngôi nhà, "Nhà hiền triết vùng Omaha" sống gần như cả đời trong một ngôi nhà duy nhất. Ông mua căn nhà này vào năm 1958 với giá 31.500 USD, tính theo thời giá hiện tại sẽ vào khoảng 250.000 USD.

Căn nhà này nằm ở một góc khá sầm uất của trung tâm thành phố Omaha, có kiến trúc khá cổ điển từ 1921, hiện tại có chỉnh sửa đôi chút. Với diện tích 610m2, đây không phải là một căn nhà nhỏ nhưng chưa được gọi là dinh thự (thường phải khoảng từ 100m2 trở lên).

Không cần nhà đắt tiền...


Giá hiện tại của căn nhà này trên trang môi giới bất động sản Realtor.com sẽ khoảng 652.619 USD còn theo mức định giá của Zestimate căn nhà này chỉ vào khoảng 591.000 USD.

Theo Công ty môi giới địa ốc Trulia, giá trung bình của những ngôi nhà tương tự như nhà của Buffett ở Omaha là 280.162USD, còn giá trung bình của các căn nhà rao bán ở đây là 236.462 USD.

Thậm chí, ngôi nhà của Buffet không phải là ngôi nhà định giá cao nhất ở khu vực này. Ngôi nhà nhỏ hơn ngay cạnh nhà Buffet được Zestimate định giá 794.500 USD và Realtor.com định giá 826.870 USD.

Trong bức thư Buffet gửi các cổ đông vào năm 2010, ông chia sẻ rằng ngôi nhà là thứ đắt thứ 3 mà ông đầu tư sau 2 chiếc nhẫn cưới.

Buffett từng phát biểu trong chương trình "The World's Greatest Moneymaker" của BBC rằng: "Tôi cảm thấy hạnh phúc khi tôi ở căn nhà này. Tôi sẽ chuyển đến một ngôi nhà khác nếu như tôi thấy mình hạnh phúc hơn ở đó. Làm sao tôi có thể cải thiện cuộc sống của mình bằng cách có 10 ngôi nhà ở khắp nơi trên thế giới? Tôi không muốn mình phải dành thời gian để quản lý 10 cái nhà và càng không muốn ai đó phải giúp tôi làm việc đó".

"Ngôi nhà này rất tốt. Tôi cảm thấy ấm áp vào mùa đông và mát mẻ vào mùa hè. Ở đây tôi cảm thấy rất thoải mái. Tôi chưa từng nghĩ tới sẽ có một ngôi nhà nào tốt hơn", Bufftett phát biểu trước báo giới.

Tháng 2 vừa qua, Buffett lại tiếp tục thể hiện quan điểm phi vật chất của mình với phóng viên của Charlie Rose: "Tôi có mọi thứ mà tôi muốn. Tôi có rất nhiều bạn bè và nhiều người trong số họ có nhiều tài sản. Nhưng trong một vài trường hợp, tôi cảm giác tài sản làm chủ họ chứ không phải họ làm chủ tài sản".

Nhà nghỉ dưỡng khiêm tốn


Buffett từng sở hữu một căn nhà nghĩ dưỡng ở bờ biển Laguna, California và đã bán đi vào năm 2005 với giá 5,45 triệu USD. Căn nhà này đã trải qua nhiều lần sang nhượng sau đó và lần giao dịch cuối cùng là vào mùa xuân năm nay với giá 4,3 triệu USD.

Ngôi nhà có diện tích 288m2 với 4 phòng ngủ và 4 phòng tắm, tọa lạc bên bờ biển Laguna, cạnh đường cao tốc Pacific Coast Highway. Mặc dù có giá hàng triệu USD nhưng đây vẫn là một căn nhà nghỉ dưỡng khiêm tốn nếu xét đến vai trò là nơi thư giãn của một tỷ phú.

Phòng khách


Phòng khách trong căn nhà nghỉ dường Buffet từng sở hữu có trần cao và hướng ra biển. Ngôi nhà này được xây dựng vào năm 1955 nhưng vẫn giữ được vẻ tươi mới. Duy chỉ có chiếc lò sưởi bằng gạch hình chữ L là cho thấy gốc gác hàng thế kỷ của căn nhà.

Phòng ngủ chính


So với những tiêu chuẩn hiện hành thì đây là một phòng ngủ với diện tích khiêm tốn cho dù đã có ban công, có thể đón ánh sáng tự nhiên và hướng ra biển.

Phòng ngủ phụ


Đối với một căn nhà ở tầm giá tương tự, phòng ngủ phụ của căn nhà này có thể bị xem là chật chội. Căn nhà này còn có hai phòng ngủ nữa, tuy nhiên trong đó có một phòng ở tầng trên cùng với trần nhà dốc, chỉ phù hợp cho trẻ em.
Theo Vef (Bích Ngọc từ CNBC)

Văn hóa và sự biến thái đáng sợ của ngôn ngữ

[Thư viện marketing] Có thể nói sự biến thái này như một tiếng chuông báo động về nền văn hoá nước ta đang bị xâm thực, cưỡng dâm một cách vô lối, mất dần bản sắc dân tộc trong ngôn ngữ.

"Trong quán bia nơi ngôn ngữ được thả phanh, sự biến thái này càng được gia tăng đến ghê gớm. Các bia sĩ nói với nhau: Hết tiền thì anh em mình phải Juven tút đấy. Còn tớ, uống thế thôi, không tớ lại "ác dê nôn xong livécphun" 1 trận thì mệt lắm!"

Ngôn ngữ - tiếng nói- phương tiện giao tiếp chủ yếu của con người. Đứng về mặt nào đó ngôn ngữ là một tấm lăng kính phản ảnh khá trung thực hình thái xã hội và văn hóa của con người.

Nhìn vào thực trạng ngôn ngữ trên bình diện là một đối tượng nghiên cứu, và nghe tiếng nói, có thể nhận ra xã hội đó đang ở giai đoạn nào, những hình thái chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của giai đoạn đó ra sao.

"Tử ngữ", "sinh ngữ"...

Thầy tôi, GS Đinh Gia Khánh từng nhấn mạnh ngôn ngữ cũng như một sinh vật có thể sinh ra và mất đi. Chính vì thế nên ngôn ngữ luôn tồn tại 2 trạng thái.

Một là tử ngữ (những tiếng mất đi), 2 là sinh ngữ (những tiếng phát sinh). Bên cạnh đó ngôn ngữ còn có sự biến thái- hiện trạng biến đổi nhóm ngôn ngữ của nhóm người theo từng nghề nghiệp, tầng lớp xã hội chịu tác động của hoàn cảnh xã hội, quan niệm, trình độ văn hoá giáo dục.

Cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20 kinh thành Thăng Long dần dần được đô thị hoá. Tầng lớp quí tộc mới, thương gia hình thành. Phương tiện giao thông hồi đó dành cho tầng lớp này ngoài ngựa, còn có các loại cáng, đểu (1 thứ giống như kiệu). Những người phục vụ 2 phương tiện này gọi là phu cáng, phu đểu, bị coi là tầng lớp thấp hèn, bị khinh miệt nhất xã hội dạo đó.

Vì quan niệm này nên trong ngôn ngữ dậy con thời này có câu răn dậy "mày không học hành tử tế lớn lên cũng chỉ làm đồ đểu cáng thôi". Lâu dần danh từ chỉ 2 nghề này đựơc ghép lại thành 1 tính từ miệt thị - "đồ đểu cáng".

Hà Nội vốn là thành phố nhiều cây me, cây sấu, khi mùa hè về xuất hiện nhóm thanh, thiếu niên trèo me trèo sấu để hái, lượm 2 loại quả này. Thời Pháp thuộc quan niệm những người làm nghề này "trèo me trèo sấu" là hạng cùng đinh, mạt hạng trong xã hội.

Danh từ này lâu dần trở nên duy danh để chỉ những kẻ ăn cắp vặt, lang thang, lưu manh, vô giáo dục, cơ nhỡ chốn Hà Thành- "đồ trèo me trèo sấu"... Dẫn 2 ví dụ về sự chuyển hoá ngữ nghĩa của ngôn ngữ để càng thấy rõ tác động của hoàn cảnh xã hội lớn lao như thế nào trong việc làm thay đổi trạng thái ngôn ngữ.

Bên cạnh sự biến thái đó thì các nhà ngôn ngữ học luôn luôn khẳng định ngôn ngữ Việt Nam là 1trong những ngôn ngữ thuộc vào loại có sức sống nhất trên thế giới.

Trải qua mọi thăng trầm, biến động của lịch sử, ngôn ngữ Việt Nam chẳng những không mất đi, bị nghèo nàn, biến dạng mà còn ngày càng phong phú, sinh động vì biết chọn lọc, hoà đồng và du nhập 1 cách hợp lý mọi loại ngôn ngữ ngoại lai khi du nhập vào nước ta.

Sự biến hoá của tiếng Hán trở thành tiếng Hán Việt nhập vào hệ thống ngôn ngữ tiếng Việt Mường cổ (ngôn ngữ gốc của tiếng Việt), rồi sự du nhập của tiếng Pháp đựơc chuyển hoá vào dòng chảy tiếng Việt là những ví dụ sinh động.

Ngày nay dân tộc ta trong giao tiếp hàng ngày đã sử dụng thành thạo vốn ngôn từ có những từ xuất phát
từ tiếng Hán, chiếm đến trên dưới 67% trong ngôn ngữ nước ta. Và hàng loạt ngôn từ có gốc tiếng Pháp đã đựơc Việt hoá một cách tài ba như "xà phòng, tăm, xích, líp, xích lô, ba gác..."

Tất cả sự chuyển hoá đều có qui luật trong ngôn ngữ...



Cuốn "Sát thủ đầu mưng mủ" đã gây nhiều tranh cãi về ngôn ngữ được sử dụng trong tác phẩm

... Và sự "thoái hóa"

Nhưng đến giai đoạn hiện nay nghe cách nói thường ngày của một số tầng lớp, nhất là giới tuổi trẻ thì có thể nhận ra tình trạng ngôn ngữ nước ta hay nói cụ thể hơn là tiếng Việt của chúng ta đang bị biến thái theo hướng... "thoái hoá".

Có thể nói sự biến thái này như một tiếng chuông báo động về nền văn hoá nước ta đang bị xâm thực, cưỡng dâm một cách vô lối, mất dần bản sắc dân tộc trong ngôn ngữ. Tiếng nói mà cha ông ta dầy công xây dựng và giữ gìn suốt cả chiều dài phát triển của nền văn hoá Việt Nam.

Thực trạng của sự biến thái này ra sao? Chỉ cần nghe qua trong giao tiếp hàng ngày đã thấy.

Một ông/ bà ở thành phố hay ngoại đô, cả đời không biết một chút tiếng Anh nào nhưng gặp nhau là phụt ra câu chào như người Mỹ: Hê lô! Để biểu hiện sự ưng thuận sau khi bàn bạc 1 công việc gì đấy bất kể trong lĩnh vực nào, người ta cũng hạ 1câu "ô kê", hoặc "ô kê nhé". "Ô kê đi", "ô kê ạ"...

Một đứa trẻ lên 3 tuổi tập nói khi ra về chào ông bà nội, ngoại, cũng đựơc bố mẹ nhắc: Con "bai" ông bà đi! Và đứa trẻ như 1 con vẹt bập bẹ: "Bai bai ông. Bai bai bà".

Trong quán bia nơi ngôn ngữ được thả phanh, sự biến thái này càng được gia tăng đến ghê gớm. Các bia sĩ nói với nhau: Hết tiền thì anh em mình phải Juven tút đấy. Còn tớ, uống thế thôi, không tớ lại "ác dê nôn xong livécphun" một trận thì mệt lắm!

Trong lớp học, học sinh thì thào với nhau khi thầy giáo vắng mặt: Thầy đi đâu mà "đầu lâu" thế. Đã vậy thì bọn mình cứ "thoải con gà mái" đi.

Giới trẻ không chỉ đàm thoại với nhau bằng thức thứ ngôn ngữ biến dạng, bất chấp tất cả qui luật của ngôn ngữ, mà còn đua nhau biến tấu, trình diễn, xem đó như một thứ mốt thời thượng.

Tệ hại hơn, thứ ngôn ngữ "ma muội" cần lên án này lại còn được Nhà xuất bản Mỹ Thuật thuộc ngành văn hoá sưu tầm, tập hợp trong một cuốn sách mang tên "Sát thủ đầu mưng mủ", nhân vụ án về tên sát nhân ngàn lần đáng lên án Lê Văn Luyện, khi sát hại cả một gia đình lương thiện.

Trong "tác phẩm" khủng khiếp này các "nhà văn hoá" đã liều lĩnh đưa ra những mẫu câu đáng sợ như "tự nhiên như cô tiên","ngất ngây con gà tây", tào lao bí đao", "đã xấu lại còn xa"...

Sự biến thái, phá vỡ mọi qui luật của ngôn ngữ này càng có đất tung hoành dụng võ hơn trong các tin nhắn, trong chát, trong thư điện tử của lứa trẻ.

Tôi tình cờ biết được 1 số từ vựng của kiểu nhắn tin trao đổi cho nhau giữa các bạn trẻ. Xin đưa ra đây 1số trong hàng trăm, nghìn từ vựng các bạn trẻ đã sử dụng, mà nếu tình cờ chúng ta đọc được thì cũng chịu, không hiểu nổi nếu không nắm được loại từ điển quái dị này.

Oki được hiểu là đồng ý. Li là chào. Del là sửa bỏ, gạt đi. Ngơi là ngăn lại. Humni là hôm nay. Iu là yêu. No table là không bàn ...

Xin được trích một câu nhắn tin của bạn trẻ khi sử dụng loại ngôn ngữ đặc chủng này: Tối này go uot nhé. Nếu OK thì phone cho tui. Đồn có địch, no table!

Tạm dịch: Tối này đi nhé. Nếu được thì gọi điện cho tôi. Nhà đang có khách. Không bàn tiếp...

Đó là chưa kể việc ưa nói tục, nói trống không theo kiểu ngoại ngữ càng làm cho sự biến thái ngôn ngữ phát triển theo chiều hướng đáng ngại.

Nguyên nhân của sự biến thái đáng sợ

Hơn 20 năm nay Việt Nam bước vào giai đoạn mở cửa trong mọi lĩnh vực từ kinh tế đến văn hoá. Nếu trong thời kì bao cấp dân ta chỉ được tiếp xúc với văn hoá cộng đồng các nứơc XHCN trong đó chủ yếu là văn hoá Liên xô, Trung Quốc.

Ngoại ngữ được học trong trường từ hệ phổ thổng đến đại học là Trung văn, Nga văn, đến giai đoạn này, văn hoá thế giới tràn ngập vào nước ta, trong đó với thế mạnh tiếng Anh là ngôn ngữ đựơc sử dụng phổ cập trong giao tiếp và trong nhiều lĩnh vực toàn cầu, đã dần dần có vị trí quan trọng. Điều này cắt nghĩa vì sao tiếng Anh lại có ảnh hưởng mạng mẽ ở nước ta cả mặt tốt lẫn mặt chưa tốt như vậy .

Thời bao cấp việc có một điện thoại để bàn ở gia đình được qui định từ cấp vụ trở lên, thì nay chẳng những điện thoại để bàn đã trở thành phương tiện thông dụng cho mỗi gia đình Việt Nam mà cùng với sự phát triển nhẩy vọt của công nghệ thông tin , người Việt cũng tiến nhanh, từ chỗ dùng máy nhắn tin đến điện thoại di động.

Bên cạnh đó máy tính để bàn, máy tính xách tay cũng dần dần trở nên thông dụng cho hầu hết gia đình và cho đa số dân chúng, nhất là giới trẻ...Điện thoại di động, máy tính kèm theo hàng loạt những ứng dụng của các phương tiện công nghệ thông tin như nhắn tin, chát, trò chơi điện tử .. đã trở thành thông dụng đựơc ngưòi Việt, đặc biệt giới trẻ ưa thích.

Một trong những ứng dụng quan trọng ra đời là nhắn tin tất phải có một công nghệ kèm theo. Làm sao trong khoảng thời gian ngắn chuyển tải được lượng thông tin cần thiết đến ngưòi nhận là 1 yêu cầu.

Đây chính là cơ sở để tạo ra số từ vựng "nhắn tin" cũng đồng thời sinh ra sự biến thái của ngôn ngữ giao tiếp của giới trẻ. Sự chế biến vô tội vạ cách viết trong nhắn tin cộng với sự sùng tiếng Anh coi đó như một kiểu chơi, khẳng định giá trị con người đã thêm 1 lần làm gia tăng biến thái ngôn ngữ.

Ở bài viết này, tôi chưa nói nhiều đến sự ưa nói tục của giới trẻ như 1 mốt sành điệu. Mà chỉ xin nói đến ảnh hưởng của lối nói trống không, cụt lủn không chỉ trong nhắn tin mà còn trong giao tiếp hàng ngày của giới trẻ.

Ở một số tiếng nước ngoài, ngữ điệu trong giọng nói khi dùng đại từ nhân xưng khẳng định thái độ tình cảm và cả thứ bậc xưng hô, khác hẳn đại từ nhân xưng đa dạng của tiếng Việt. Ở chỗ nó có đầy đủ các thang bậc từ ông bà, bố mẹ, cô dì, chú bác..., đến cả những đại từ nói lên sự khinh miệt hay tôn kính, gần gụi hay xa lạ.

Đáng tiếc các bạn trẻ ít nhiều biết ngoại ngữ lại bị ảnh hưởng lỗi diễn đạt "vô nhân xưng" này nên thường đổ đồng "cá mè một lứa" trong giao tiếp thường nhật.

Trong sự mở cửa chấp nhận sự hoà đồng thì bên cạnh những cái hay, cái tốt của các trào lưu văn hoá trên thế giới chúng ta cũng phải đối đầu với những gì độc hại, những gì không phù hợp với truyền thống, tập tục tính cách của dân tộc ta.


Ảnh minh họa

Bên cạnh đó ngành giáo dục dường như còn có lỗ hổng rất lớn trong việc dạy người. Nặng về dạy chữ, mà quên đi việc giáo dục truyền thống, lịch sử, nhân cách, đạo đức làm người...

Các quan niệm sai trái về giá trị con người cũng vì thế lan toả. Phải chăng đây cũng là nguyên nhân sâu sa tạo ra sự biến thái đáng sợ của ngôn ngữ?

Cách đây gần một thế kỉ, chí sĩ Phạm Quỳnh đã có câu nói nổi tiếng, đại ý: Truyện Kiều còn thì tiếng Việt còn. Tiếng Việt còn thì nước Việt tồn tại.

Sự biến thái về ngôn ngữ đáng lo hiện nay chứng tỏ các nhà quản lý chưa biết khơi gợi niềm tự hào về tiếng Việt, bảo tồn vốn quí báu của ngôn ngữ dân tộc. Sự chế biến vô tội vạ tiếng Việt như hiện nay đâu chỉ thuần tuý ở sự băng hoại trong ngôn ngữ mà nó còn là sự băng hoại trong lối sống của 1 tỉ lệ không nhỏ người Việt trẻ.

Đáng buồn thay, trong sự tác động để làm biến thái tiếng Việt có tác động không nhỏ của các nhà làm văn hoá. Ngoài trường hợp Nhà XB Mỹ thuật cho ra ấn phẩm "Sát thủ đầu mưng mủ", thì gần đây việc không ít ngưòi cổ vũ cho thứ thơ viết và nghĩ lai căng, rập theo cách viết và lối tư duy nước ngoài của đôi ba nhà thơ thạo ngoại ngữ cũng là sự góp phần...không nhỏ.

Đáng ra nhà thơ hơn ai hết phải làm cho ngôn ngữ dân tộc ngày càng trong sáng hơn, dân tộc hơn. Vậy mà ..

Tôi nhớ trong tiểu luận "Hawthor và tiểu thuyết Rêu trên nhà mục sư", nhà văn Mỹ nổi tiếng Herman Melville tác giả 2 tiểu thuyết lừng danh thế giới "Typee"," Omoo" người cùng thời với Whitsman, tác giả tập thơ Lá cỏ, khuyên các nhà văn, nhà thơ Mỹ không nên viết như một người Anh, người Pháp.

Ông khẳng định "các nhà văn chúng ta là nhà văn Mỹ...Thất bại trong việc sáng tạo ra cái độc đáo vẫn tốt hơn là thành công trong việc bắt chước"

Vậy mà những câu thơ loằng ngoằng, bất chấp ngữ điệu, ngôn từ nhịp điệu của tiếng Việt, cách nghĩ của dân tộc ta đã từng sáng bừng trong những trang viết của Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Bính....lại được ca ngợi, tán thưởng.. thì trách chi các cháu thanh, thiếu niên không từ tấm gương mờ đó mà làm hỏng tiếng Việt thân yêu bằng những trò ảo thuật bậy bạ trong ngôn ngữ của họ.

Theo Tuanvietnam (Nguyễn Hiếu)
*(Nguồn: Blog Lê Thiếu Nhơn. Tuần Việt Nam biên tập, đặt lại tít, và các tiêu đề nhỏ)

Kinh tế vĩ mô VN: Không ai dám nói tình hình sẽ dễ dàng trong thời gian tới

[Tài chính marketing] Mặc dù lạm phát đã được kìm chế với chỉ số lạm phát giảm còn 5% trong tháng 7 từ mức đỉnh điểm 23% của năm 2011, nhưng nhu cầu yếu đã khiến ngành sản xuất tiếp tục chậm lại. Điều này góp phần để HSBC dự báo sẽ có thêm đợt cắt giảm lãi suất trong thời gian tới.

Cần nhiều cải cách

Việt Nam không phải là quốc gia duy nhất đang phải đối mặt với tình hình nhu cầu nội địa giảm sút. Ngay cả các cường quốc trên thế giới (như Mỹ, khu vực đồng tiền chung châu Âu và Trung Quốc) vẫn đang phải trông cậy vào các nhà chính sách tiền tệ để nới lỏng và thúc đẩy chi tiêu. Tuy nhiên, tiêu dùng vẫn còn đang rất trì trệ, và rất cần thiết có các biện pháp cải cách về cấu trúc nhằm giải quyết các vấn đề cố hữu trong nền kinh tế. Quá trình này sẽ cần rất nhiều thời gian để hoàn thành, do việc tái cấu trúc một hệ thống kinh tế sẽ gặp nhiều thử thách về chính trị và phức tạp về phương pháp thực hiện.

Các nhà làm chính sách Việt Nam cho biết họ sẵn sàng thực hiện các động thái cần thiết để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Có một số biện pháp đã được áp dụng từ năm ngoái nhằm thắt chặt tín dụng và kìm hãm nhu cầu. Lạm phát đã giảm từ mức đỉnh điểm 23% trong tháng 8.2011 xuống còn 5% trong tháng 7 năm nay. Thêm vào đó, cán cân thương mại của bảy tháng đầu năm cũng thu hẹp chỉ còn 58 triệu USD, một mức giảm đáng kể so với con số 6 tỷ USD cùng kỳ năm 2011. Tiền đồng Việt Nam cũng khá ổn định kể từ đầu năm. Hơn nữa, nguồn dự trữ ngoại hối cũng tăng lên nhờ vào thâm hụt thương mại đã được cải thiện và nguồn vốn FDI được giải ngân dồi dào. Chính phủ cũng vừa thông qua một số nghị quyết nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp nhà nước và lĩnh vực ngân hàng.


Tuy nhiên, hiện nay vẫn tồn tại rất nhiều vấn đề cần được giải quyết. Tăng trưởng tín dụng đang ở mức thấp (dưới 1% tính đến thời điểm hiện tại) cho thấy nhu cầu trong và ngoài nước xuống thấp – một dấu hiệu thể hiện sự yếu kém về cơ cấu. Từ nửa sau những năm 2000, tỉ lệ nợ vay trên vốn tự có của nền kinh tế đã tăng cao và rất nhiều khoản đầu tư được đổ vào các lĩnh vực kém hiệu quả. Các biện pháp thắt chặt tín dụng bộc lộ sự quá phụ thuộc vào tín dụng để duy trì tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam. Đây chính là một chiến lược thiếu tính bền vững do phương thức này làm tăng rủi ro hệ thống và góp phần làm gia tăng áp lực lạm phát. Nhưng cùng lúc, động thái thắt chặt này cũng phản ánh cam kết của Chính phủ trong việc tháo gỡ các vấn đề về nợ xấu trong hệ thống. Tỷ lệ tín dụng trên GDP giảm từ mức 121% trong năm 2010 xuống còn 108% trong năm 2011 (nhưng con số này vẫn còn rất cao so với 48% trong năm 2003). Quá trình cắt giảm nợ sẽ còn tiếp tục trong những năm tới.

Trong giai đoạn này, các doanh nghiệp Việt Nam đang chịu ảnh hưởng từ nhu cầu nội địa giảm sút và tăng trưởng toàn cầu đang khá yếu. Chỉ số PMI của HSBC trong tháng 7 đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ thời điểm bắt đầu vào tháng 4.2011. Tình hình này cho thấy người tiêu dùng không sẵn lòng chi tiêu, do cả hai yếu tố nợ cao và triển vọng tăng trưởng thấp. Hành vi chi tiêu của người dân và cả doanh nghiệp đang ngày một cẩn trọng cộng với lạm phát giảm dần cho thấy Ngân hàng Nhà nước sẽ còn tiếp tục đưa ra các biện pháp nới lỏng trong thời gian tới.

Một quá trình gian nan

Nhu cầu quá ít
Tiếp theo chu kỳ thắt chặt tín dụng đã được thực hiện trong năm trước, Ngân hàng Nhà nước đã cắt giảm 500 điểm ở hầu hết các mức lãi suất cơ bản (lãi suất thị trường mở OMO đã giảm 600 điểm) từ đầu năm 2012 nhằm thúc đẩy nhu cầu yếu kém trong nước. Tuy nhiên, động thái này vẫn chưa tác động lên chi tiêu do người tiêu dùng và các doanh nghiệp vẫn đang nặng gánh nợ nần hoặc khá cẩn trọng về viễn cảnh của nền kinh tế. Chỉ số PMI của HSBC trong tháng 7 phản ánh tình hình này khi giảm từ mức 46,6 điểm trong tháng 6 xuống 43,5 điểm trong tháng này. Đây hiện là mức giảm thấp nhất kể từ thời điểm bắt đầu khảo sát PMI vào tháng 4.2011. Ngành sản xuất chiếm khoảng 26% GDP của Việt Nam. Chỉ số PMI dưới 50 điểm cho thấy sự sút giảm so với tháng trước.


Biểu đồ 1 cho thấy lượng đơn đặt hàng mới và lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới đều giảm xuống mức thấp nhất trong lịch sử khảo sát. Do vậy, Việt Nam không những chịu ảnh hưởng từ nhu cầu cẩn trọng tại thị trường nội địa mà còn do nhu cầu hàng hoá xuất khẩu sang các thị trường châu Âu và Trung Quốc sụt giảm mạnh. Tuy nhiên, các nhà quản lý cho rằng vấn đề đáng lo ngại nhất vẫn là sự cẩn trọng trong chi tiêu của người tiêu dùng. Mặt khác, thiếu nhu cầu cộng với giá cả hàng hóa xuống thấp khiến giá cả đầu vào giảm theo. Điều này góp phần làm giảm gánh nặng về chi phí cho các công ty. Bên cạnh đó, giá cả đầu ra cũng giảm đi do chi phí thấp hơn cũng như tính cạnh tranh ngày càng tăng giữa các doanh nghiệp, cho thấy các áp lực lạm phát chung đang nhẹ dần.


Các công ty sản xuất cũng như các đối tác của họ đều đang cắt giảm chi phí, hình thành quan điểm cẩn trọng hơn trong chi tiêu. Biểu đồ 3 thể hiện động thái cắt giảm việc làm và số lượng hàng hóa mua vào cho thấy các doanh nghiệp đang lo ngại rằng nhu cầu sẽ không thể phục hồi trong thời gian ngắn hạn. Tồn kho hàng mua cũng giảm đi đáng kể. Cùng lúc đó, giảm tồn kho hàng hoá cũng vẽ nên một bức tranh tương lai không mấy khả quan của các nhà quản lý. Các chỉ số thương mại yếu kém cho thấy sự sụt giảm về nhu cầu trong và ngoài nước. Ngành xuất khẩu tăng 3,8% trong tháng 7 so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi số liệu của tháng 6 là 14,3% (con số tổng kết bảy tháng đầu năm giảm còn 19,9% trong khi là 23,4% trong tháng 6). Sau khi điều chỉnh các yếu tố theo mùa, chỉ số trong tháng 7 đánh dấu tháng thứ hai sụt giảm liên tiếp trên cơ sở so sánh theo từng tháng. Xét về xu hướng, ngành xuất khẩu có chiều hướng sút giảm mạnh do sự giảm sút các mặt hàng thủy hải sản, cao su, linh kiện máy vi tính, hàng điện tử, than và trà. Nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu giảm xuống từ thị trường châu Âu và Trung Quốc.

Nhập khẩu cũng xuống thấp từ 13,6% trong tháng 6 còn 9% trong tháng 7 nếu so sánh với cùng kỳ năm ngoái. Sau khi được điều chỉnh các yếu tố theo mùa, ngành nhập khẩu giảm xuống 3,7% theo tháng từ mức giảm 0,5% trong tháng 6 dẫn dắt bởi các mặt hàng nhập khẩu là nguyên liệu may mặc, nhựa, sợi, xe hơi, xe máy, thép, lúa mì và sữa. Tình hình đó cho thấy không chỉ riêng các mặt hàng tiêu dùng đang sụt giảm mà các nguyên vật liệu sử dụng cho việc sản xuất giày dép và may mặc cũng đang giảm xuống. Với tình hình suy thoái hiện tại ở khu vực đồng tiền chung châu Âu và kinh tế Mỹ đang đi xuống, nhu cầu hàng xuất khẩu Việt Nam trong tương lai sẽ tiếp tục suy yếu. Chúng tôi điều chỉnh dự báo về tăng trưởng xuất khẩu xuống 13,7% từ mức 16,6% cho năm 2012 và tăng trưởng nhập khẩu xuống 6,5% từ mức 12,3% trước đó. Thâm hụt thương mại trong năm nay dự đoán sẽ là 3,5 tỷ USD (giảm so với mức dự đoán 6,4 tỷ USD). Điều này cho thấy mặc dù Chính phủ đang tăng cường các biện pháp nới lỏng để kích thích tiêu dùng cho đến hết năm 2012, nhu cầu sẽ chỉ được cải thiện dần dần trong thời gian tới.


Con đường phía trước có dễ dàng hơn?

Sẽ dễ dàng hơn nhưng cũng khó có thể ảnh hưởng đáng kể đến nhu cầu. Lạm phát toàn phần đã chậm lại từ mức 6,9% trong tháng 6 xuống còn 5,3%. Tính cả yếu tố điều chỉnh mùa vụ, giá cả đã tăng nhẹ 0,1% so với tháng trước sau khi đã giảm 0,1% trong tháng 6. Hầu hết sự suy giảm chỉ số lạm phát toàn phần đều do giá cả thực phẩm đã giảm từ 6,3% trong tháng trước còn 3,6% trong tháng 7 nếu so với cùng kỳ năm ngoái. Giá cả thực phẩm của tháng 7 đã giảm 0,5% so với tháng 6 từ mức 0,2% trong tháng 6 so với tháng trước đó. Tuy nhiên, lạm phát cơ bản tháng 7 sau khi loại bỏ giá cả thực phẩm và năng lượng vẫn còn cao ở mức 8,2% so với cùng kỳ năm ngoái (trong khi tháng 6 là 8,3%). Xét về mặt liên tục, lạm phát cơ bản đã tăng 0,6% so với tháng trước trong khi số liệu tháng 6 là 0,2%.

Thực tế, lạm phát toàn phần đang chậm lại và sẽ tiếp tục giảm nữa trong những tháng tới nhờ vào lãi suất thuận lợi cũng như nhu cầu thấp. Điều này tạo cơ hội cho Ngân hàng Nhà nước cắt giảm lãi suất thêm nữa (chúng tôi hy vọng việc cắt giảm thêm 1% lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất huy động sẽ được thông báo sớm). Lãi suất thông qua thị trường mở OMO cũng đã giảm 600 điểm từ mức 14% xuống còn 8% đến hết năm 2011. 1% lãi suất sẽ có thể được cắt giảm thêm nữa trong thời gian tới vì tăng trưởng kinh tế vẫn yếu và lạm phát cơ bản sẽ giảm xuống đáy khoảng 7%. Chúng tôi hy vọng sẽ sớm có thông tin về việc cắt giảm thêm 1% lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất huy động trong thời gian gần.


Tuy nhiên, việc cắt giảm lãi suất này cũng khó có thể gây ảnh hưởng đáng kể đến các hoạt động tín dụng. Ngân hàng Nhà nước vừa thông báo rằng họ sẽ nỗ lực nhiều hơn để bơm tín dụng vào nền kinh tế từ giờ cho đến cuối năm. Các cá nhân và doanh nghiệp đang thông qua quá trình cắt giảm nợ và họ không muốn vay thêm các khoản nợ hay khó có thể tiếp cận vốn vay vì thiếu các tài sản thế chấp đạt chất lượng cao hoặc đang ở trong tình trạng mắc nợ trầm trọng. Điều này có nghĩa rằng nếu các ngân hàng sạch tiền (những ngân hàng nhỏ thông thường là những ngân hàng hay gặp vấn đề về thanh khoản) có thể sẽ khó mở rộng bảng cân đối kế toán. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước vừa thông báo rằng trần lãi suất huy động sẽ xuống dưới mức 8% (hiện tại đang là 9%) để buộc các ngân hàng cắt giảm lãi suất cho vay (hiện tại đang là 15%). Ngân hàng nhà nước cũng sẽ có thể sử dụng các biện pháp hành chính để thuyết phục các ngân hàng cắt giảm lãi suất cho vay.

Một gói kích thích kinh tế tương tự như gói đã thực hiện vào năm 2009 khó có thể được sử dụng lại. Lý do thứ nhất, lạm phát cao trong năm 2011 đã làm cho tín dụng không còn là một giải pháp hấp dẫn, đặc biệt khi đa số tín dụng đều được rót vào những lĩnh vực kém hiệu quả. Lý do nữa là các biện pháp kích thích tài chính cho nền kinh tế thông qua chi tiêu Chính phủ đã không còn hấp dẫn khi các nhà làm chính sách vừa mới đây thông báo một chiến lược mới nhằm cắt giảm thâm hụt ngân sách cũng như nhằm tăng cường hiệu quả của đầu tư công. Tuy nhiên, trong khi đây có thể là một sự thay đổi đầy đau khổ để nuốt trôi tỷ lệ tăng trưởng không theo khuynh hướng trong một thời gian nhưng Việt Nam đang đi đúng hướng khiđã cắt giảm nợ và áp dụng những biện phát thúc đẩy năng suất mà sẽ đưa nền kinh tế quay trở lại đà tăng trưởng nhanh.

Theo DĐDN (Hoài Anh)

Các bài khác:

Thursday, July 26, 2012

10 doanh nhân đương thời vĩ đại nhất

[Thư viện marketing] David K. Williams, tác giả của nhiều bài viết trên tạp chí HBR và Forbes, doanh nhân kỳ cựu, CEO của tập đoàn Fishbowl vừa đưa ra danh sách 10 doanh nhân đương thời có tầm ảnh hưởng nhất trên thế giới với những tư tưởng mang tính cách mạng.

Jeff Bezos, Amazon

Jeff Bezos là nhà tiên phong của thế giới về thương mại điện tử cũng là người có công định hình nhiều lĩnh vực hoạt động trong thế giới mạng.

Chính Jeff Bezos đã đổi mới khái niệm "phân tích dự báo"- giới thiệu sản phẩm tới khách hàng dựa vào thói quen mua sắm và lịch sử tìm kiếm. Không thể phủ nhận một thực tế là ý tưởng của vị doanh nhân này cũng đã giúp ngành thương mại điện tử hoạt động có hiệu quả hơn và thu lợi nhuận lớn hơn. Bên cạnh đó nó đã mang đến cho người tiêu dùng trên khắp thể giới những trải nghiệm mua sắm mới mẻ và thú vị hơn rất nhiều.


Anne Mulcahy, Xerox

Anne đã giúp Xerox đối mặt kiên cường với cuộc khủng hoảng tài chính và vượt qua giai đoạn vô cùng khó khăn đó.

Anne không bao giờ tham vọng tranh giành vị trí CEO, nhưng bà cũng không e dè trước cơ hội lãnh đạo tập đoàn khi được bầu vào ban quản trị năm 2001. Trong suốt nhiệm kỳ của mình, bà đã mạnh dạn cắt giảm 30% số lượng nhân viên và dẹp toàn bộ mảng sản xuất màn hình của tập đoàn.


Với sự dũng cảm và những đóng góp hết sức to lớn trong việc vực dậy một tập đoàn đang đứng trên bờ vực thất bại, năm 2008, bà được tạp chí Chief Executive bình chọn là CEO của năm. US News & World Report cũng cho bà vào danh sách những lãnh đạo giỏi nhất nước Mỹ. Năm 2005 và 2009, tạp chí lừng danh Forbes đã vinh danh bà là một trong những phụ nữ có tầm ảnh hưởng lớn nhất trên thế giới.

Brad Smith, Intuit

Intuit là một trong những công ty cung cấp phần mềm quản lý tài chính lớn và thành công nhất thế giới với những sản phẩm nổi tiếng như QuickBooks.


Mặc dù có doanh thu gần 4 tỷ USD và giá trị vốn hóa thị trường lớn tới con số 16,5 tỷ USD với gần 8.000 nhân viên nhưng Intuit vẫn không ngừng nỗ lực với khí thế vô cùng hăng hái. Vị lãnh đạo Brad đã có công thổi hồn và phát triển văn hóa doanh nghiệp. Những thành viên của tập đoàn được thỏa sức sáng tạo, dấn thân vào những mạo hiểm để khám phá, để học hỏi từ những thành công và cả thất bại.

Howard Schultz, Starbucks

Sinh ra trong một gia đình nghèo khó tại Bronx, vượt qua mọi thử thách, cuối cùng Howard Schultz trở thành nhà lãnh đạo của một tập đoàn lừng danh thế giới. Ông chính là hiện thân của lòng dũng cảm, tình thần vượt khó và sự phi thường trong sự nghiệp chinh phục "giấc mơ Mỹ".


Mặc dù đã đứng trên đỉnh cao vinh quang, nhưng Howard vẫn rất say mê với việc đầu tư vào những lĩnh vực đã mang lại thành công cho nhiều người hay những công ty kinh doanh khác trong đó có eBay.

Larry Page, Google

Larry Page là tấm gương khác trong thế giới doanh nhân. Ông là người sẵn sàng dấn thân và giải quyết bất cứ khó khăn và thử thách nào. Larry và Google đã phải đối mặt với quá nhiều những thăng trầm, khen chê trong thời gian qua. Thế nhưng cho dù phải đối mặt với giông bão thì vị lãnh đạo này cũng không bao giờ để người khác nghĩ rằng ông đang nao núng trước khó khăn. Tất cả những gì ông đang theo đuổi là sự thành công của công ty- điều mà với vị lãnh đạo này là quan trọng nhất.


Tim Cook, Apple

Nhiều người ra rằng, thật khó để Tim Cook có thể vượt qua cái bóng của người tiền nhiệm Steve Jobs, nhưng ông đã làm nên những điều rất lớn lao.


Thay vì chỉ đi theo con đường cũ, Tim Cook đang không ngừng nỗ lực để hướng tới tương lai với những phát minh mới của chính mình, tiêu biểu là công nghệ quản lý hàng tồn kho mới nhất của Apple. .

Indra Nooyi, PepsiCo

Indra Nooyi, cũng là một trong những phụ nữ quyền lực nhất thế giới theo tạp chí Forbes. Bà không những lãnh đạo tập đoàn nổi tiếng gặt hái được những kỷ lục về doanh thu, lợi nhuận mà còn định hướng PepsiCo phát triển vì lợi ích người tiêu dùng bằng những thực phẩm giàu dinh dưỡng hơn, tốt cho sức khỏe hơn.


Là một nhà lãnh đạo cấp cao nhưng bà Indra Nooyi lại được biết đến là một phụ nữ hòa đồng vui tính. Bà luôn nhiệt tình tham gia những hoạt động ngoại khóa của công ty.

Warren Buffett, Berkshire Hathaway

Warren Buffett được thế giới biết đến là một doanh nhân có tinh thần thép. Ông bình tĩnh ngay cả vào những thời điểm mà tất cả mọi người xung quanh ông đang nháo nhào trước những tính toán về các khoản lỗ lãi.


Ông là một ví dụ hoàn hảo cho sự kiên nhẫn- yếu tố mang đến cho ông sự thành công trong các cuộc đua kinh doanh với phương châm chậm mà chắc.

Sir Richard Branson, Virgin Group

Không thể không phủ nhận tài năng của bất kỳ cá nhân nào có thể sở hữu hơn 400 công ty và khối tài sản hàng nhiều tỷ USD. Richard Branson là một người như thế.


Ông còn được thế giới ngưỡng mộ vì sự kiên cường và thương hiệu của chính mình.

Rupert Murdoch, News Corporation

Sinh ra ở Úc, Rupert Murdoch là một doanh nhân tự lập trở thành người hùng trong đế chế xuất bản của Mỹ, là nhà sáng lập và lãnh đạo tập đoàn truyền thông lừng danh News Corporation. Ông là một tấm gương làm việc không mệt mỏi dù ông đang ở độ tuổi nên nghỉ ngơi và hưởng thụ.


Mặc dù vừa xảy ra scandal hối lộ, tham nhũng liên quan đến News Corporation và bản thân ông Rupert Murdoch đã phải từ chức khỏi hội đồng quản trị của một số công ty con nhưng không thể phủ nhận ông là một tấm gương sáng về nghị lực và bản lĩnh vượt khó.
Theo VeF (Hung Ninh)

Bài đọc thêm:

Đề án giải cứu DN: Nói thì chưa tin được

[Tài chính marketing] Bộ Công thương đang đưa đề án "Tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp". Tuy nhiên, để thiết thực, doanh nghiệp (DN) cho rằng chính sách của Nhà nước cần đi đúng chỗ và thực thi quyết liệt hơn chứ mới chỉ nói thì chưa tin được.

Nghe nhưng chưa thấy

Điệp khúc DN chịu lãi suất cao, thu hẹp sản xuất, phá sản, hàng tồn kho đã quá quen thuộc. Đã có nhiều hoạt động hỗ trợ được công bố, tuy nhiên cộng đồng DN vẫn cho rằng chỉ nghe chứ chưa thấy.

Bà Quách Tố Dung, Phó Giám đốc Sở Công thương TP.HCM cho rằng: Các thông tư, chỉ đạo của thống đốc về vốn vay thì có nhưng hiện nay ngân hàng mức chỉ ở giai đoạn xem xét, đàm phán chứ chư thực hiện đồng bộ, giải quyết thấu đáo cho doanh nghiệp.

Trong khi đó ông Nguyễn Minh Toại, Giám đốc Sở Công thương tỉnh Cần Thơ nêu quan điểm: "DN có lợi nhuận cao đến mấy cũng không đủ lãi để trả lãi cho ngân hàng. Để giải quyết tình trạng này Chính phủ và NHNN cần phải thay đổi và điều chỉnh, nếu không có biện pháp thì vỡ nợ xảy ra. Nhiều DN mất cân đối, hoạch toán không đúng thì ngân hàng không cho vay. Lãi suất đề ra như vậy nhưng cũng cần có liên tịch và kiểm tra những đầu mối ngân hàng ở TƯ. Đến nay vẫn chưa tìm thấy sự nhất quán giữa NHNN và ngân hàng thương mại nên doanh nghiệp mong vốn cũng chỉ biết nghe các lời hứa từ trên".

Chủ trương của Bộ Công thương là tập hợp nhiều ý kiến của các DN để hoàn thiện đề án trình Chính phủ và đẩy nhanh tiến độ thực thi. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay thì việc phát triển thị trường trong nước mấu chốt là việc tìm cơ chế để hàng hóa giao lưu. Hầu hết DN cho rằng nên thành lập một tổ công tác chuyên trách ở cấp Bộ để tìm sự liên kết giải quyết giữa nhiều Bộ với nhau bởi tiếng nói của sở không thể đến với các bộ khác.

Ông Vũ Huy Hoàng - Bộ trưởng Bộ Công Thương - cho biết: "Khả năng thực hiện kinh tế năm 2012, nhiều khó khăn mà cộng đồng doanh nghiệp đang đương đầu, nhiều doanh nghiệp thu hẹp sản xuất, phá sản, hàng tồn kho. Bình quân hàng tồn kho 6-2012 tăng 26% so với cùng kỳ năm 2011. Trong khi đó, tiếp cận vốn, lãi suất, đầu vào tăng... tất cả mọi điều này liên quan đến phát triển kinh tế và an sinh xã hội.

Đi cùng doanh nghiệp tới đâu?

Trong khi các DN đang uể oải với tình hình kinh doanh sụt giảm thì sức ép cạnh tranh từ các DN nước ngoài luôn là nỗi ám ảnh. Hầu hết doanh nghiệp đều cho rằng các cơ chế chính sách của nhà nước tác động vào thị trường chưa đủ liều lượng để tăng sức đề kháng trước cạnh tranh. Hàng rào kỹ thuật xây dựng vẫn chưa đủ mạnh để tạo nên một lợi thế nhất định cho các DN nội.

Ông Lê Phước Vũ, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Tôn Hoa Sen lo ngại: "Một trong những mối hiểm họa lớn nhất cho việc cạnh tranh của doanh nghiệp nội là chống chọi với tình trạng chuyển giá của các doanh nghiệp FDI. Thậm chí ngân sách nhà nước thâm hút rất nhiều khi tình trạng này vẫn đang tiếp diễn. Trong khi đó cần một giải pháp cứng rắn và triệt để thì hiện nay cơ chế của ta vẫn đang còn loay hoay. Vì vậy nếu không cứng rắn siết chặt điều này thì doanh nghiệp trong nước sẽ thất bại ngay trên sân nhà nếu "đấu tay đôi" với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nươc ngoài." 

Về vấn đề lãi suất, theo phân tích của ông Vũ thì hiện nay lãi suất có giảm thêm 2 -3% nữa thì DN cũng chưa chắc được cứu. Phần nhiều DN chỉ có thể tiếp cận được vốn nếu lãi suất xuống dưới 10%. Đành rằng thật khó có ngân hàng nào chấp nhận được mức lãi suất như vậy nhưng nếu không mạnh bạo thì dòng thác suy thoái của doanh nghiệp sẽ không thể chặn đứng. Hiện nay không ít doanh nghiệp tồn tại như những "khối u ác tính" hủy hoại cả cơ thể nền kinh tế. Nếu DN chết quá nhiều thì ngân hàng cũng khó sống.

Trong khi nhiều DN gồng mình chịu đựng sự khắc nghiệt của thị trường xuất khẩu thì ngay tại nội địa để giải quyết thủ tục hành chính cũng đang chồng thêm nỗi lo. Các hiệp hội ngành hàng xuất khẩu lớn là thủy sản, chế biến gỗ, da giày đã kiến nghị với Bộ Công thương, Tổng cục Hải quan nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính trong xuất nhập khẩu tuy nhiên vẫn đề vẫn chưa đi đến hồi kết.

Ông Phạm Thanh Hoan, Giám đốc điều hành Công ty cổ phần may Việt Tiến cho biết, theo quy định, doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu dành cho gia công xuất khẩu sẽ được ân hạn thuế trong vòng 275 ngày. Tuy nhiên để được ân hạn thuế, DN phải trải qua thủ tục nhiêu khê, phức tạp. DN phải mất nhiều thời gian và chi phí, cần có tài sản thế chấp, phải qua nhiều lần công chứng... Đây là vướng mắc lớn nhất nên đề xuất dung hòa chính sách vĩ mô để tháo gỡ khó khăn này.

Nhiều cơ hội thiết lập chỗ đứng trên thị trường xuất khẩu có thể sẽ bị bỏ quá nếu như các cơ chế chính sách trong nước còn quá cứng nhắc. Cụ thể như ngành gỗ thành phẩm Việt Nam hiện đang đứng thứ 7 trên thế giới về xuất khẩu, chỉ đứng sau các nước phát triển như Đức, Ý, Trung Quốc... Với bối cảnh suy thoái kinh tế như hiện nay thì nhu cầu tiêu dùng sẽ không còn hướng đến những sản phẩm gỗ giá cao của các nước phát triển thì cơ hội dành cho Việt Nam rất lớn.

Theo ông Nguyễn Chiến Thắng, Chủ tịch Hiệp hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP.HCM, các doanh nghiệp gỗ cần có cơ chế hỗ trợ về vốn vay để đầu tư công nghệ hiện đại nhằm nâng cao năng suất và chất lượng. Hiện tại đang có nhiều cơ hội để tận dụng trang thiết bị hiện đại tại các doanh nghiệp đóng cửa ở nước ngoài. Nhiều doanh nghiệp trong ngành cũng đang kiến nghị cần lập được chợ hoặc một vùng kinh doanh đồ gỗ để giải quyết đầu ra cho doanh nghiệp và cũng tạo động lực xuất khẩu.

Vì vậy ngoài những biện pháp về thuế, ngân hàng, tài chính nhưng vẫn cần có những biện pháp căn cơ hơn nữa. Dự thảo của đề án tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp đã được Bộ Công thương xây dựng như là một giải pháp bổ sung. Tuy nhiên để thực thi một cách trơn tru thì còn tùy vào mức độ tiếp nhận ý kiến của doanh nghiệp đến đâu.
Theo VeF (Nam Phong)

Các bài khác:

Wednesday, July 25, 2012

Tài trợ cho Olympic: Một vốn có được bốn lời?

[Thương hiệu] Các nhãn hiệu tài trợ cho Olympic luôn phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt từ Ban tổ chức về các hoạt động quảng cáo. Vậy điều gì đã thu hút các nhãn hiệu đổ tiền của cho giải thi đấu thể thao lớn nhất hành tinh này?

Nguyên tắc của Thế vận hội duy trì hàng trăm năm qua là quảng cáo không được cho phép xuất hiện trong sân vận động, không có logo nhà tài trợ trên trang phục của các vận động viên (ngoại trừ tại Paralympic)...

Đại diện của Ban tổ chức Thế vận hội Olympic và Paralympic London (LOCOG) cho biết: “Các quy định của chúng tôi rất rộng và vì thế, bất kỳ chiến dịch nào ăn theo Olympic đều là vi phạm. Kể cả các quảng cáo không nói trực tiếp mà chỉ gợi liên tưởng cũng sẽ bị xử lý”. Thậm chí, vận động viên sẽ bị tước huy chương nếu quảng cáo gián tiếp trên Twitter, Facebook hay blog...

Dù quy định ngặt nghèo nhưng các hoạt động thương mại liên quan đến Olympic vẫn là một cuộc đua tranh quyết liệt. Ngân sách của Chính phủ Anh dành cho tổ chức Thế vận hội năm nay đã lên đến 14,5 tỷ USD so với ước tính ban đầu là 2,4 tỷ USD.

Ủy ban Olympic Quốc tế (IOC) đã gây quỹ được 4,87 tỷ USD bằng tiền bản quyền phát sóng và các khoản tài trợ bốn năm. LOCOG đã huy động 700 triệu bảng trong tài trợ bán vé và đồ lưu niệm có gắn logo Olympic.

Martin Sorrell, ông chủ của công ty quảng cáo WPP, dự báo Thế vận hội sẽ bơm vào thị trường quảng cáo Mỹ từ 800 triệu USD - 1 tỷ USD năm nay. Còn theo ước tính của ZenithOptimedia, thị trường quảng cáo toàn cầu sẽ đạt 1,3 tỷ USD từ Olympic.

Mười một nhà tài trợ toàn cầu (được gọi là Đối tác hàng đầu Thế vận hội) trả chi phí cho Ủy ban Olympic Quốc tế (IOC) để mua quyền sử dụng thương hiệu Olympic. Chỉ có một nhà tài trợ trong mỗi hạng mục thương mại: Coca-Cola cho nước giải khát, Panasonic cho TV...

Giá trị của mỗi hợp đồng được giữ bí mật, nhưng tổng số tiền tài trợ cho 4 năm 2009-2012 là 957 triệu USD. Nhà tài trợ có thể trả bằng tiền mặt, bằng hiện vật, hoặc cả hai.

Tuy nhiên, hầu hết các nhà tài trợ hàng đầu, chẳng hạn như McDonald’s, Omega, Panasonic và Procter & Gamble đều có chiến lược quảng cáo riêng khi tài trợ cho Olympic, nhưng có điểm chung là tránh “thương mại hóa thô thiển”.

Tất cả các nhãn hàng khi gắn với sự kiện thể thao lớn này đều muốn gắn thương hiệu với tinh thần “chơi đẹp - fair play”, hoặc tận dụng sự lan tỏa toàn cầu.

Cũng chính vì lý do “fair play”, các quan chức của IOC đã phải cân nhắc có nên tiếp tục cho phép hãng đồ ăn nhanh McDonald’s tài trợ cho giải thi đấu thể thao này. IOC lo ngại số người béo phì ngày càng gia tăng trên toàn cầu có thể làm ảnh hưởng tới hình ảnh của Olympic nếu còn nhận tài trợ từ McDonald’s...

Một nghiên cứu của Đại học Columbia (Mỹ) cho thấy, những công ty có những “tài trợ hào phóng” đều có kết quả kinh doanh tốt. Nghiên cứu 51 công ty Mỹ đã bỏ ra hơn 15 triệu USD hằng năm tài trợ (chủ yếu là các môn thể thao) từ năm 2005 và 2009 cho thấy, lợi nhuận ròng của công ty này tăng trưởng nhanh hơn so với các công ty trong nhóm S&P 500 (6,5%-7,8% mỗi năm).

Các nhà tài trợ lớn còn gặt hái kết quả tốt hơn: 16 nhà tài trợ dành trên 160 triệu US tài trợ/năm có doanh thu tăng 22,1% mỗi năm.

Đặc biệt, khi tài trợ cho các sự kiện thể thao lớn, các thương hiệu thường có độ lan tỏa mạnh. Coca-Cola và IBM tài trợ cho thể thao để làm cho người tiêu dùng cảm thấy “ấm áp” hơn về thương hiệu của mình và nâng cao giá trị khi gia nhập thị trường toàn cầu.

Coca-Cola đã tài trợ cho Olympic kể từ năm 1928 và đã ký hợp đồng tài trợ cho tới năm 2020 và hãng này luôn nằm trong nhóm các thương hiệu giá trị nhất toàn cầu. Tuy nhiên, Samsung có lẽ là ví dụ tốt nhất về tận dụng cơ hội tại Olympic.

Năm 1997, hãng này đã qua mặt Motorola để trở thành nhà tài trợ Olympic ở hạng mục điện thoại di động. Đến nay, theo Interbrand, Samsung là thương hiệu giá trị thứ hai tại châu Á (sau Toyota).

Chính vì thế, một nhãn hàng mới nổi tại châu Á là Acer cũng quyết tâm giành quyền tài trợ cho Olympic từ tay đối thủ Lenovo. Theo đó, Acer cung cấp máy tính cho Olympic ở một số khu vực thi đấu, bao gồm các dịch vụ tin học tại Trung tâm điều hành công nghệ Olympic, Trung tâm báo chí, Làng Olympic cho các vận động viên và quan chức thể thao.
--------------------
11 nhà tài trợ cho Olympic 2012

- McDonald’s
- Visa
- Omega
- Acer
- Coca-Cola
- Panasonic
- Procter & Gamble
- General Electric
- Dow Chemical
- Atos
- Samsung

--------------------
Theo DNSG (Hồng Kha)

Mô hình nào cho ĐH tư thục Việt Nam (II)?

[Học marketing] Phương án tối ưu nhất hiện nay là xây dựng hành lang pháp lý nhằm tạo điều kiện cho việc thành lập khối các cơ sở đại học tư thục hoàn toàn "không vì lợi nhuận".

Đặc biệt phải có quy định rõ ràng về trách nhiệm xã hội và giải trình của trường thông qua hành lang pháp lý của nhà nước, các quy chế thích hợp về thành viên của hội đồng quản trị, tức không để cho nhà đầu tư hoặc cổ đông góp vốn khống chế hoạt động của hội đồng quản trị.


Xâu xé lẫn nhau bởi đều vì... lợi nhuận

Ở Việt Nam, theo thống kê, trong khoảng 10 năm (từ 2000 đến 2010), quy mô của các cơ sở GDĐH ngoài công lập tăng từ 22 trường lên 81 trường. Trong khi các cơ sở công lập tăng từ 156 trường lên 331 trường.

Trong 81 trường ĐH, CĐ ngoài công lập, số sinh viên là 254.370, chiếm 14,7% tổng số sinh viên cả nước[1]. Trong những năm gần đây, nhiều cơ sở GDĐH tư thục gặp khó khăn trong việc thu hút sinh viên- gây ấn tượng xã hội không tốt về khu vực ngoài công lập do chỉ tuyển được sinh viên có chất lượng... kém.

Theo GS. Trần Hồng Quân, các cơ sở GDĐH tư thục thường được xem là "con nuôi" trong khi trường công lập là "con đẻ". Hơn nữa, có sự cạnh tranh không bình đẳng giữa khối công lập và tư thục vì Nhà nước hỗ trợ khoảng 70% chi phí đào tạo cho trường công trong khi trường tư lại không nhận được hoặc nhận được rất ít sự tài trợ[2].

Mặt khác, trong khi các cơ sở GDĐH công lập phải theo mức học phí qui định của Nhà nước thì các cơ sở tư thục lại được quyền xác định mức học phí của riêng mình (các trường tư chỉ được yêu cầu công khai mức học phí cho xã hội biết).

Thực tế cho thấy do tất cả các cơ sở GDĐH tư thục ở Việt Nam đều là "vì lợi nhuận" nên rất khó để Nhà nước, hoặc thông qua các Bộ, ngành hay UBND cung cấp cho các cơ sở này nhiều hỗ trợ ngoài một số ưu đãi hiện có.

Ngoài ra, bởi vì các cổ đông khi bầu các thành viên của hội đồng quản trị thường đại diện cho lợi ích của nhà đầu tư, và Nhà nước không đóng vai trò chính thức trong ảnh hưởng đến việc ra các quyết định ở trường ĐH tư thục nên việc các nhóm lợi ích xâu xé lẫn nhau bởi tất cả đều "vì lợi nhuận" là điều khó tránh khỏi.

Trong khi các cơ sở GDĐH công lập và tư thục chật vật cạnh tranh và mâu thuẫn lẫn nhau vì lợi ích, thì các trường 100% vốn đầu tư của nước ngoài lại... sống khỏe.

Một ví dụ tiêu biểu là Trường ĐH RMIT. Nhóm các trường này được tự chủ rất cao về các lĩnh vực như quản trị nhà trường, tuyển chọn nhân sự, sinh viên, tài chính ..., trong khi các cơ sở GDĐH Việt Nam gặp nhiều khó khăn do hạn chế về quyền tự chủ, kể cả 2 ĐH Quốc gia vốn được quyền tự chủ cao hơn các trường ĐH công lập khác.


Sự khác biệt này tạo ra sự cạnh tranh không bình đẳng giữa các cơ sở GDĐH trong nước và quốc tế. "Ngao sò tranh nhau, ngư ông đắc lợi" là điều dễ thấy.

Việt Nam hiện vẫn chưa có qui định pháp lý nào cho phép thành lập các cơ sở GDĐH "không vì lợi nhuận" để có thể dễ dàng hơn trong việc thu hút nguồn tài trợ từ Nhà nước cũng như thu hút các tài trợ tư nhân từ các "mạnh thường quân" và các nhóm như Việt kiều.

Cũng như không có sự hiểu biết sâu rộng về mô hình "phi lợi nhuận" vốn phổ biến ở các nước Đông Á. Mô hình này trên thực tế được hình thành từ các trường ĐH tư hàng đầu của Mỹ.

Trong khuôn khổ của mô hình này, không có các cổ đông cá nhân và vì thế không có việc chia lợi nhuận cho bất cứ cá nhân nào. Tất cả phần lợi nhuận thu được đều tái đầu tư cho cơ sở GD sau khi trừ chi phí thật sự như đã nêu ở Nhật (chứ không phải chi phí... ảo như ở Việt Nam).

Về cơ chế giám sát, QĐ số 61/2009/QĐ-TTg chỉ đề cập 1 phần nhỏ về cơ chế giám sát và thanh tra các cơ sở GDĐH tư thục. Quyết định này để các trường tự điều hành các hoạt động theo các điều kiện hoạt động của họ.

Việc này dẫn đến nhiều rủi ro, đặc biệt là QĐ cho phép các nhà đầu tư toàn quyền quyết định các thành viên của hội đồng quản trị. Theo tác giả Thanh Loan[3], chính bởi những sự nhập nhèm trong quy chế và luật định nên hiện tượng mua bán trường ĐH tư thục đang trở thành vấn đề nhức nhối hiện nay.

Mặc dù nhận ra những bất cập trong QĐ số 61/2009/QĐ-TTg và QĐsố 63/2011/QĐ-TTg về vấn đề "lợi nhuận" và "phi lợi nhuận" nhưng dự thảo Luật GD ĐH (Quốc hội thông qua vào tháng 6/2012 vừa qua) lại không đưa ra rõ qui định về cơ sở GD ĐH tư "phi lợi nhuận" mà chỉ đưa ra 2 phương án (điều 64)[4]:

"1. a) Dành tối thiểu 25% để đầu tư cho hoạt động GD xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, đào tạo, bồi dưỡng giảng viên, viên chức, cán bộ quản lý giáo dục, phục vụ cho hoạt động học tập và sinh hoạt của người học hoặc cho các mục đích từ thiện, thực hiện trách nhiệm xã hội. Phần này được miễn thuế theo quy định của pháp luật về thuế.

b) Phần còn lại, nếu phân phối cho các nhà đầu tư và người lao động của cơ sở GDĐH, thì phải nộp thuế theo quy định của pháp luật.

2. a. Cơ sở GDĐH tư thục dành tối thiểu 20% doanh thu của nhà trường và được miễn thuế phần này theo quy định của pháp luật về thuế để tái đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị.

b. Phần đầu tư cho hoạt động GD- ĐT, bồi dưỡng giảng viên, viên chức, cán bộ quản lý GD, phục vụ cho hoạt động học tập và sinh hoạt của người học, hoặc cho các mục đích từ thiện, thực hiện trách nhiệm xã hội thì được miễn thuế theo quy định của pháp luật. Phần phân phối cho nhà đầu tư và người lao động thì phải nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế".

Qui định "phần phân phối cho nhà đầu tư và người lao động thì phải nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế" 1 lần nữa cho thấy các trường ĐH tư thục hoạt động không khác gì...1 công ty tư nhân.

Như trên đã đề cập, chính vì hoạt động như 1 công ty nên bài toán tranh giành lợi ích giữa các nhà đầu tư, cổ đông góp vốn và nhà giáo luôn âm ỉ và sẵn sàng bùng phát.

Mô hình nào cho ĐH tư thục Việt Nam?

Theo ý kiến của nhiều chuyên gia, việc né tránh khái niệm "vì lợi nhuận" hay "không vì lợi nhuận" trong GD nói chung dường như là nguyên nhân chính khiến cho khoảng 15 năm nay việc triển khai mô hình ĐH ngoài công lập ở Việt Nam luôn gặp trở ngại.

Vì vậy, nên chăng, tạm thời xem xét xây dựng mô hình trường tư "một phần vì lợi nhuận" hay có "lợi nhuận thích hợp". Theo mô hình này thì sẽ khống chế lợi nhuận của cổ đông góp vốn. Lợi nhuận của trường sẽ chia lãi theo tỷ lệ lãi suất ngân hàng, còn lại sẽ là tài sản sở hữu cộng đồng[5].

Một khả năng khác là xây dựng mô hình hoàn toàn "vì lợi nhuận" nhưng phải chịu mức thuế hoàn toàn giống như các doanh nghiệp. Tuy nhiên, do GD là 1 sản phẩm hàng hóa đặc biệt theo hướng "cận thị trường" (quasi-market) dưới sự giám sát và điều tiết của Nhà nước nên không thể bỏ mặc cho thị trường quyết định.

Do đó, phương án tối ưu nhất hiện nay là xây dựng hành lang pháp lý nhằm tạo điều kiện cho việc thành lập khối các cơ sở ĐH tư thục hoàn toàn "không vì lợi nhuận". Phương án này cho đến nay vẫn chưa được xem xét tích cực ở Việt Nam, mặc dù ở các nước Đông Á và trên thế giới, mô hình "không vì lợi nhuận" này là phổ biến.

Thí dụ như ở Trung Quốc, các cơ sở "không vì lợi nhuận" bao gồm tổ chức công dân được thành lập tự nguyện nhằm đạt được các mục tiêu chia sẻ (như các tổ chức từ thiện và các viện nghiên cứu).

Các cơ sở tư nhân sử dụng tài sản của Nhà nước nhưng được thành lập các tổ chức phi lợi nhuận (trường học, bệnh viện, viện bảo tàng, và các cơ sở nghiên cứu khoa học) cùng với các tổ chức được thành lập với nguồn quỹ hiến tặng nhằm đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, GD, văn hóa, an sinh xã hội, bảo vệ môi trường hoặc xóa đói giảm nghèo.[6]

Chính phủ có thể hỗ trợ quá trình phát triển các cơ sở giáo dục tư nhân này bằng cách vinh danh các "mạnh thường quân" và bằng cách miễn giảm thuế hoàn toàn cho họ cũng như cung cấp các quỹ tài trợ ngân sách tương ứng (chẳng hạn như Nhà nước đồng tài trợ, cung cấp một số đầu tư ban đầu, hay đấu thầu các dự án nghiên cứu và phát triển).

Đặc biệt phải có quy định rõ ràng về trách nhiệm xã hội và giải trình của trường thông qua hành lang pháp lý của nhà nước, các quy chế thích hợp về thành viên của hội đồng quản trị, tức không để cho nhà đầu tư hoặc cổ đông góp vốn khống chế hoạt động của hội đồng quản trị.

Nên chăng Nhà nước bổ nhiệm các thành viên độc lập bên ngoài vào hội đồng quản trị nhằm cân bằng quyền lực với các nhà đầu tư), cùng với các hoạt động kiểm định chất lượng và kiểm toán của các cơ quan quản lý nhà nước và sự tham gia giám sát của toàn xã hội[7].

Đây sẽ là cơ sở cho việc xây dựng và phát triển một nền GDĐH tư thục mạnh, đáp ứng yêu cầu hiện Nghị quyết số 14/2005 của TTCP trong việc đổi mới và làm lành mạnh hóa nền GDĐH nước nhà.
-------------------------------------
[1] http://dantri.com.vn/c25/s25-586632/dh-cong-lap-va-dan-lap-canh-tranh-khong-binh-dang.htm
[2] Như 9
[4] Không rõ bản dự thảo Luật cuối cùng được Quốc hội thông qua chọn phương án nào trong hai phương án trên.
[6] Ngân hàng Phát triển Châu Á (2011). Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa: Hệ thống quản lý và cơ chế pháp lý cho các tổ chức phi chính phủ. Báo cáo hỗ trợ kỹ thuật. Đề án số: 45515, p. 1
[7] Trích từ Qui hoạch Tổng thể cho Giáo dục Đại học Việt Nam (tài liệu chưa xuất bản).
-------------------------------------
Theo TVN (Đào Văn Khanh)

Kinh tế VN: Cần chọn con đường riêng của mình

[Tài chính marketing] Tôi sẽ không gọi Việt Nam là “Trung Quốc thứ hai”. Nhưng tôi dự đoán rằng Việt Nam sẽ có những thành công vượt trội trong thời gian tới, vấn đề là cần có những quyết định đúng đắn về chiến lược phát triển.

Giáo sư Douglas Coulter, từng giảng dạy tại Đại học Harvard, Đại học Bắc Kinh và Đại học Mátxcơva, là chuyên gia tư vấn và giảng dạy hàng đầu thế giới về chiến lược tái cơ cấu doanh nghiệp và quản trị doanh nghiệp.

Vào đầu tháng 8 tới đây, Giáo sư sẽ tới Việt Nam và tham dự Hội thảo CEO Summit 2012, với chủ đề "Tái cấu trúc doanh nghiệp: Kinh nghiệm quốc tế và Thực tiễn áp dụng cho các doanh nghiệp Việt Nam" do Vietnam Report kết hợp cùng VietNamNet tổ chức. Trong vai trò là diễn giả chính của Hội thảo, Giáo sư hi vọng sẽ cùng các doanh nghiệp Việt chia sẻ những hiểu biết của mình về tái cấu trúc thông qua các trường hợp điển hình trên thế giới, từ đó rút ra một số bài học thiết yếu cho quá trình tái cấu trúc.

Nhân sự kiện này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh với Giáo sư.

1. Đã từng tới Việt Nam trong giai đoạn chiến tranh, Giáo sư cảm nhận ra sao về lần trở lại Việt Nam này?

Tôi rất có thiện cảm với đất nước và con người Việt Nam, và thật vinh dự khi được trở lại đây. Từng không may mắn tham gia cuộc chiến tại Việt Nam, phần lớn chúng tôi đều cảm thấy rất có lỗi vì những hậu quả đã gây ra cho Việt Nam. Chiến tranh là một bi kịch, trước hết cho Việt Nam, nhưng cũng cho cả Mỹ. Cuộc chiến đã ảnh hưởng khá lớn tới Mỹ và làm thay đổi Mỹ cho tới tận ngày nay, theo chiều hướng tiêu cực.

2. Một vài người thường so sánh Việt Nam như "Trung Quốc thứ hai". Theo Giáo sư, sự lựa chọn nào sẽ tốt hơn cho Việt Nam: đi theo con đường hoạch định chiến lược phát triển như Trung Quốc hay lựa chọn con đường của riêng mình?

Việt Nam không thể bắt chước theo Trung Quốc, bởi quy mô dân số của Trung Quốc lớn hơn nhiều, và thực trạng kinh tế Việt Nam và Trung Quốc cũng hoàn toàn khác biệt nhau. Việt Nam là nước xuất khẩu hàng hóa: dầu, gạo, cà phê, thủy sản. Còn Trung Quốc thì không. Việt Nam không thể phát triển kinh tế theo hướng đi của Trung Quốc, mà Việt Nam phải xây dựng một chiến lược phát triển của riêng mình.

Ngoài xuất khẩu hàng hóa, tôi nhận thấy mô hình kinh tế Việt Nam khá giống Đài Loan, hoặc Hàn Quốc hay Nhật Bản, cũng phát triển về lĩnh vực công nghệ cao, và chú trọng vào công nghiệp nặng. Tuy nhiên, Việt Nam cần thận trọng trong việc tìm kiếm "ngách" riêng của mình, có thể học hỏi kinh nghiệm của Ấn Độ trong việc phát triển lĩnh vực gia công phần mềm. Chất lượng quản trị của Việt Nam sẽ quyết định khả năng tìm ra "ngách phát triển" riêng và nên phát triển nó ra sao.

Tôi sẽ không gọi Việt Nam là "Trung Quốc thứ hai". Nhưng tôi dự đoán rằng Việt Nam sẽ có những thành công vượt trội trong thời gian tới, vấn đề là cần có những quyết định đúng đắn về chiến lược phát triển.

3. Có kinh nghiệm lâu năm trong giảng dạy và tư vấn về quản trị doanh nghiệp tại Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nga, theo Giáo sư điểm khác biệt chính trong quản trị doanh nghiệp tại các quốc gia này là gì? Loại hình quản trị doanh nghiệp nào sẽ thích hợp với tình hình Việt Nam hiện nay?

Tại Nga, quản trị doanh nghiệp có đặc điểm tập trung hóa cao trong tay cổ đông lớn và thiếu minh bạch, với 3/5 số công ty cổ phần hiện đang hoạt động được hình thành sau quá trình cổ phần hóa DNNN vào những năm 1990. Cổ đông nội bộ chiếm tới 65% cổ phần và lợi ích của cổ đông thiểu số ít được bảo đảm. Các báo cáo tài chính của các công ty Nga thường thiếu tính minh bạch, điều này có liên quan tới tư duy giữ bí mật trong kinh doanh tại Nga - một "truyền thống" khó xóa bỏ trong một sớm, một chiều.

Tại Trung Quốc, do giá cổ phiếu của một công ty hoạt động kém có thể tăng mạnh như giá cổ phiếu của các công ty hoạt động tốt, các nhà quản lý doanh nghiệp không bị áp lực bởi diễn biến thị trường theo hướng kích thích họ cải thiện tình hình quản trị doanh nghiệp. Nguyên nhân khiến doanh nghiệp Trung Quốc cảm thấy ít áp lực hơn về việc cải thiện trị quản trị doanh nghiệp không phải vì họ không biết cách làm, mà bởi họ nhận định nó không quá cần thiết trong việc thu hút nguồn vốn nước ngoài. Khi bạn đã dự trữ được nhiều tiền, bạn không cần phải trấn an nhà đầu tư nào cả. Nhưng hiện nay, Trung Quốc đang theo đuổi quá trình phát triển nhân tài theo cách quản lý của các công ty đa quốc gia Phương Tây. Sẽ hình thành nhiều phòng ban trong doanh nghiệp với một số giám đốc độc lập, và sẽ có sự cạnh tranh giữa thế hệ tân tiến và những lãnh đạo có tư tưởng cũ.


4. Trong thời kỳ khó khăn hiện nay, nhiều doanh nghiệp Việt Nam rơi vào khủng hoảng và đứng trước nguy cơ phá sản. Theo Giáo sư, doanh nghiệp Việt nên áp dụng chiến lược kinh doanh nào tốt nhất trong thời gian tới? Giáo sư nhận định ra sao về vấn đề quản trị doanh nghiệp trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế?

Diễn biến kinh Việt Nam gần đây không mấy thuận lợi. Bất ổn định kinh tế vĩ mô, thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại tạo ra môi trường kinh doanh khó khăn. Bên cạnh đó, còn là sự phân bổ thiếu cân đối về nguồn lực cho các doanh nghiệp nhà nước, và do vậy gây ảnh hưởng không nhỏ tới khối doanh nghiệp tư nhân. Tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam chủ yếu dựa vào nhóm tập đoàn kinh tế lớn và lượng tín dụng cấp cho nhóm này, hơn là dựa vào cải cách và sáng tạo. Nhưng, bạn biết đấy, nhóm doanh nghiệp tư nhân mới là động lực chính thúc đẩy sự đi lên của kinh tế Việt Nam trong tương lai.

Trong thời điểm hiện nay, Việt Nam không có những tập đoàn đủ lớn cả về vốn, quản trị theo chuẩn mực quốc tế để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam nên tập trung vào tìm kiếm thị trường "ngách" tiềm năng, thân thiện hơn với khách hàng, đặc biệt quan tâm tới dịch vụ giá trị khách hàng. Có thể lấy Haier của Trung Quốc làm ví dụ. Khi Haier quyết định mở rộng thị phần hoạt động ra nước ngoài, thay vì lựa chọn khối thị trường chưa phát triển như vùng Trung Đông, họ chấp nhận cạnh tranh trực tiếp tại khu vực Mỹ và Châu Âu- những nơi buộc họ phải đáp ứng những tiêu chuẩn chất lượng rất cao, và Haier đã chọn cung ứng sản phẩm riêng biệt ít được phân phối trên thị trường. Ngoài ra, doanh nghiệp Việt Nam cũng nên chú tâm vào vấn đề quản trị. Bạn không thể sản xuất các sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao mà không có quy trình quản lý chất lượng cao tương ứng. Quản trị tốt nên được chú trọng nhiều hơn, thậm chí hơn cả quá trình sản xuất hay marketing.

5. Có những lo ngại về, "lợi ích nhóm" là một trong những trở ngại lớn của quá trình tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam. Theo ông làm thế nào để vượt qua lợi ích nhóm tiêu cực?

Lợi ích nhóm bắt nguồn từ việc cổ phần của nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước rất lớn, thường ở mức 39% ngay cả sau khi đã thực hiện cổ phần hóa. Doanh nghiệp nhà nước thường được đặt dưới sự quản lý của các bộ ban ngành khác nhau. Việc phân chia trách nhiệm sở hữu và nghĩa vụ điều hành không rõ ràng, "một cổ" mà có tới "hai ba tròng". Giải pháp là Việt Nam nên xem xét cho phép nhiều nhà đầu tư chiến lược bên ngoài tham gia vào doanh nghiệp nhà nước. Nhà đầu tư bên ngoài phải có tiếng nói, quyền giám sát, kiểm tra và tác động tới quản lý của DNNN sau cổ phần hóa. Việt Nam nên cân nhắc về tự do hóa việc góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài, cho phép tăng sở hữu nước ngoài tại các doanh nghiệp nhà nước. Động thái này có thể khiến hiệu suất hoạt động của doanh nghiệp nhà nước được cải thiện tốt hơn so với doanh nghiệp tư nhân trong nước thuần túy.

Xin cảm ơn những chia sẻ của Giáo sư!
Theo VeF - Ngô Nga
Các bài khác: