Wednesday, February 29, 2012

10 sự thật thế giới ít biết về kinh tế Việt Nam

picture
Việt Nam có tên trong hầu hết các
danh sách về các thị trường mới nổi
hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài
- Ảnh: Brian Ashcraft.
[Marketing3k.vn] Thành tựu kinh tế của Việt Nam trong gần 1/4 thế kỷ qua đã và đang thu hút được sự quan tâm lớn của giới phân tích quốc tế. Một báo cáo mới đây của viện nghiên cứu McKinsey Global đã chỉ ra 10 sự thật về kinh tế Việt Nam có thể khiến công chúng thế giới phải ngạc nhiên, báo Foreign Policy của Mỹ cho biết.

Bản báo cáo mang tựa đề “Sustainining Vietnam’s Growth: The Productivity Challenge” (tạm dịch: “Duy trì tăng trưởng ở Việt Nam: Thách thức về năng suất”) cho rằng, Việt Nam đang có những bước chuyển mình rõ nét. 

Trong đó, phải kể tới việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2007, hay sức hút mãnh liệt của Việt Nam đối với vốn đầu tư nước ngoài, sự dịch chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp và dịch vụ. 

Tuy nhiên, báo cáo cũng khuyến nghị rằng, nếu muốn duy trì sự tăng trưởng năng động này, Việt Nam cần cải thiện năng suất lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ trong những năm sắp tới.

VnEconomy xin giới thiệu 10 điểm đáng chú ý nói trên trong báo cáo của McKinsey Global.

1. Việt Nam tăng trưởng kinh tế nhanh thứ nhì châu Á, sau Trung Quốc

Trong vòng 1/4 thập kỷ qua, Việt Nam từ chỗ là một quốc gia bị tàn phá bởi chiến tranh đã vươn lên trở thành một trong những câu chuyện kinh tế thành công của châu Á. Từ khi thực hiện chính sách Đổi mới năm 1986, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng nhanh hơn bất kỳ một nền kinh tế nào khác trừ Trung Quốc, với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người hàng năm là 5,3%.


Sự tăng trưởng này được duy trì bất chấp cuộc khủng hoảng tài chính châu Á trong thập niên 1990 và khủng hoảng tài chính toàn cầu mới đây. Trong thời gian từ năm 2005-2010, kinh tế Việt Nam tăng 7% mỗi năm.

2. Kinh tế Việt Nam đang dịch chuyển mạnh mẽ khỏi nông nghiệp 

Ngày nay, nền kinh tế Việt Nam không còn tập trung vào nông nghiệp như trước. Trên thực tế, chỉ trong vòng 15 năm, tỷ trọng đóng góp của nông nghiệp trong GDP của Việt Nam đã giảm một nửa từ 40% xuống còn 20%, một tốc độ nhanh chóng hơn ở các nền kinh tế châu Á khác. Một sự dịch chuyển tương tự phải mất tới 29 năm ở Trung Quốc và 41 năm ở Ấn Độ.


Trong vòng 10 năm qua, tỷ lệ lao động trong nông nghiệp của Việt Nam giảm 13 điểm phần trăm, trong khi tỷ lệ lao động trong công nghiệp tăng 9,6 điểm phần trăm và trong lĩnh vực dịch vụ tăng 3,4%. Sự dịch chuyển của lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ đã tạo ra đóng góp to lớn cho phát triển kinh tế của Việt Nam, vì năng suất lao động giữa các ngành này có sự khác biệt lớn.

Kết quả là, trong thập kỷ qua, tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong GDP của Việt Nam giảm 6,7 điểm phần trăm, trong khi tỷ trọng của lĩnh vực công nghiệp tăng thêm 7,2 điểm phần trăm.

3. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn là nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về hạt tiêu, hạt điều, gạo và cà phê 

Việt Nam là nước xuất khẩu hạt tiêu lớn nhất thế giới, với khối lượng xuất khẩu nông sản này đạt 116.000 tấn trong năm 2010. Việt Nam cũng dẫn đầu thế giới về xuất khẩu hạt điều trong 4 năm liên tiếp, chưa kể giữ vị trí xuất khẩu gạo lớn thứ nhì thế giới sau Thái Lan, và chỉ thua Brazil về xuất khẩu cà phê.


Chỉ trong vòng có 4 năm, khối lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam đã tăng gấp gần 3 lần. Ngoài ra, Việt Nam đứng thứ 5 thế giới về sản lượng chè và đứng thứ 6 về xuất khẩu các mặt hàng cá da trơn, tôm và cá ngừ.

4. Việt Nam không phải là “Trung Quốc + 1” 

Chi phí lao động gia tăng ở Trung Quốc đã thúc đẩy nhiều doanh nghiệp sản xuất ở nước này chuyển nhà máy sang Việt Nam để tận dụng nguồn lao động giá rẻ. Xu hướng này đã khiến nhiều lãnh đạo doanh nghiệp đề cập nhiều tới việc Việt Nam sẽ trở thành một địa chỉ sản xuất hàng xuất khẩu lớn tiếp theo tại châu Á, giống như một phiên bản thu nhỏ của Trung Quốc, gọi nôm na là “Trung Quốc + 1”.


Tuy nhiên, Việt Nam có sự khác biệt lớn so với Trung Quốc trên hai phương diện. Thứ nhất, nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhiều vào tiêu dùng cá nhân hơn so với kinh tế Trung Quốc. Tiêu dùng của các hộ gia đình đóng góp 65% vào GDP của Việt Nam, một tỷ lệ cao hiếm có ở châu Á. Trong khi đó, tỷ lệ này ở Trung Quốc chỉ là 36%.

Thứ hai, trong khi sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của Trung Quốc là kết quả của hoạt động xuất khẩu hàng hóa và mức độ đầu tư cơ bản đặc biệt cao, thì nền kinh tế Việt Nam cân bằng hơn giữa sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Trong đó, mỗi ngành này đóng góp xấp xỉ 40% GDP của Việt Nam. Sự phát triển của Việt Nam dựa trên nhiều ngành nghề đa dạng, với các phân khúc thị trường cạnh tranh trong khắp nền kinh tế.

Trong vòng 5 năm qua, sản lượng công nghiệp (bao gồm các ngành xây dựng, sản xuất, khai mỏ, điện…) và dịch vụ của Việt Nam đã tăng trưởng với tốc độ khoảng 8% mỗi năm.

5. Việt Nam là một thỏi nam châm đối với vốn đầu tư nước ngoài

Việt Nam có tên trong hầu hết các danh sách về các thị trường mới nổi hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Các nghiên cứu của Bộ Thương mại và Đầu tư Vương quốc Anh hay trung tâm nghiên cứu kinh tế Economist Intelligence Unit (EIU) đều xếp Việt Nam là thị trường mới nổi hấp dẫn nhất đối với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) sau khối BRIC gồm các nước Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc.


Lượng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam đã tăng lên 71,7 tỷ USD vào năm 2008 từ mức 3,2 tỷ USD vào năm 2003, trước khi giảm xuống còn 21,5 tỷ USD vào năm 2009 do ảnh hưởng của suy thoái toàn cầu.

Điểm khác biệt tiếp theo giữa Việt Nam và Trung Quốc là, gần 60% vốn FDI ở Trung Quốc được đổ vào những ngày có hàm lượng nhân công cao, so với tỷ lệ chỉ 20% ở Việt Nam. Đối với Việt Nam, số vốn FDI còn lại được rót vào các ngành như khai mỏ và dầu khí (40%), bất động sản (15-20%) và du lịch. Từ năm 2005 tới nay, số du khách quốc tế tới Việt Nam đã tăng 1/3.

6. Việt Nam có hạ tầng đường giao thông tiên tiến hơn so với Philippines và Thái Lan 

Việt Nam đã và đang đầu tư mạnh cho cơ sở hạ tầng. Nhiều du khách tới Việt Nam vẫn xem những con đường giao thông ở đây còn khá cơ bản. Tuy nhiên, ở giai đoạn phát triển kinh tế như hiện nay, Việt Nam đã đạt được tốc độ phát triển đường xá đáng ghi nhận.


Mật độ đường giao thông của Việt Nam đã đạt mức 0,78 km đường/km2 diện tích vào năm 2009, cao hơn ở Philippines và Thái Lan - hai nền kinh tế đạt mức độ phát triển cao hơn Việt Nam. Cũng trong năm 2009, mạng lưới điện đã phủ khắp 96% diện tích Việt Nam. Những cảng container mới như Dung Quất và Cái Mép, hay các sân bay được nâng cấp ở Đà Nẵng, Cần Thơ… đã tăng cường kết nối giữa Việt Nam với phần còn lại của thế giới.

7. Internet đã trở nên phổ biến đối với thế hệ trẻ Việt Nam 

Việt Nam có dân số trẻ, có trình độ học vấn tốt và sử dụng mạng ngày càng nhiều hơn. Từ năm 2000-2010, số thuê bao di động ở Việt Nam tăng gần 70% mỗi năm, so với mức tăng chưa đầy 10% mỗi năm ở Mỹ trong cùng khoảng thời gian. Đến cuối năm 2010, Việt Nam có 170 triệu thuê bao điện thoại, trong đó 154 triệu là thuê bao di động.


So với nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ châu Á khác, tỷ lệ sử dụng Internet ở mức 31% tại Việt Nam còn thấp. Chẳng hạn, tỷ lệ này ở Malaysia và Đài Loan lần lượt là 55% và 72%. Nhưng những thay đổi chóng mặt đang diễn ra. Số thuê bao băng thông rộng ở Việt Nam đã tăng lên từ 0,5 triệu thuê vào vào năm 2006 lên mức 3,8 triệu thuê bao vào năm 2010. Cũng trong năm 2010, số thuê bao mạng 3G tại Việt Nam đạt 7,7 triệu thuê bao.

Một khi cơ sở hạ tầng viễn thông tại Việt Nam phát triển, thì mức độ sử dụng di động và Internet tại Việt Nam cũng sẽ bùng nổ theo. Đến nay, tỷ lệ người dùng Internet ở Việt Nam có tiếp cận tin tức trên mạng là 94%. Hơn 40% người dùng mạng ở Việt Nam lướt web mỗi ngày.

8. Việt Nam đang trở thành một địa chỉ hàng đầu cho các dịch vụ gia công và thuê ngoài 

Số lao động trong lĩnh vực dịch vụ gia công và thuê ngoài của Việt Nam đến nay đã lên tới 100.000 người, và ngành này đang tạo ra doanh thu hơn 1,5 tỷ USD mỗi năm cho Việt Nam. Nhiều công ty đa quốc gia lớn như HP, IBM hay Panasonic đều đã có cơ sở hoạt động tại Việt Nam


Trên thực tế, Việt Nam hoàn toàn có tiềm năng lọt vào top 10 địa chỉ dẫn đầu thế giới trong lĩnh vực gia công và thuê ngoài, nhờ những ưu thế như lực lượng lao động trẻ được đào tạo tốt (mỗi năm, có 257.000 sinh viên đại học Việt Nam ra trường) và mức lương tương đối thấp. Một nhà lập trình phần mềm ở Việt Nam có thể trả mức lương nhân viên thấp hơn 60% so với ở Trung Quốc. Tương tự, các kỹ sư về xử lý dữ liệu và giọng nói ở Việt Nam được trả thấp hơn 50% so với ở Trung Quốc. 

Ngành dịch vụ gia công và thuê ngoài ở Việt Nam có khả năng đem đến mức doanh thu 6-8 tỷ USD mỗi năm, miễn là thế giới có nhu cầu và Việt Nam đảm bảo đáp ứng. Ngành này có thể trở thành một cỗ máy tạo việc làm cho các đô thị, tạo công ăn việc làm cho thêm 600.000-700.000 người trong thời gian từ nay đến năm 2020, và đóng góp 3-5% vào tăng trưởng GDP của Việt Nam.

9. Tốc độ tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng Việt Nam đang cao hơn so với các ngân hàng của Trung Quốc, Ấn Độ và các nước khác trong ASEAN 

Trong thập kỷ qua, tổng dư nợ tín dụng của Việt Nam tăng với tốc độ 33% mỗi năm, mạnh hơn so với ở Trung Quốc, Ấn Độ hay bất kỳ nước nào khác trong khối ASEAN. Đến cuối năm 2010, dư nợ tín dụng đã tương đương khoảng 120% GDP của Việt Nam, so với mức chỉ 22% vào năm 2010.


Mặc dù tình trạng tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ này có thể là một bằng chứng về tốc độ phát triển năng động của nền kinh tế Việt Nam và sự mở rộng của hệ thống ngân hàng, nhiều người vẫn lo ngại về khả năng gia tăng của nợ xấu cũng như những hệ lụy đối với nền kinh tế.

10. Lợi tức dân số (demographic dividen) của Việt Nam đang giảm dần 

Lợi tức dân số được định nghĩa đơn giản là những ích lợi kinh tế có được từ biến đổi dân số. Trong thời gian 2005-2015, lực lượng lao động trẻ gia tăng và sự dịch chuyển chóng vánh của nền kinh tế khỏi lĩnh vực nông nghiệp đã đóng góp 2/3 tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. 1/3 tăng trưởng còn lại xuất phát từ năng suất lao động được cải thiện. Tuy nhiên, đến nay, hai động lực tăng trưởng đầu tiên của nền kinh tế Việt Nam đang yếu đi.


Thống kê chính thức dự báo rằng, tăng trưởng lực lượng lao động của Việt Nam sẽ giảm xuống còn khoảng 0,6% mỗi năm trong thập kỷ tới, từ mức 2,8% mỗi năm trong thời kỳ 2000-2010. Bên cạnh đó, sự dịch chuyển “từ đồng ruộng tới nhà máy” của nền kinh tế Việt Nam cũng khó có khả năng diễn ra với tốc độ như trước nữa.

Bởi thế, việc cải thiện năng suất lao động là cần thiết đề bù đắp cho những suy giảm nói trên nếu Việt Nam muốn duy trì tốc độ tăng trưởng GDP cao như thời gian qua. Cụ thể hơn, Việt Nam cần đẩy nhanh thêm 50% tốc độ gia tăng năng suất lao động hàng năm, từ mức 4,1% lên 6,4%, để đạt mục tiêu tăng trưởng hàng năm 7-8% mà Chính phủ đề ra trong thời gian từ nay đến năm 2020. Nếu không đạt được mức tăng trưởng năng suất như vậy, tăng trưởng GDP của Việt Nam có thể giảm xuống còn 4-4,5% mỗi năm. Với tốc độ tăng GDP như thế, giá trị GDP của Việt Nam vào năm 2020 sẽ thấp hơn 30% so với giá trị đạt được trong trường hợp nền kinh tế tăng trưởng 7% mỗi năm. 
Kiều Oanh

Các bài khác:

GS Mỹ luận bàn vai trò trí thức

[Marketing3k.vn] Trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay, sẽ rất rủi ro nếu một xã hội nào đó chỉ tạo ra giới trí thức của những người có kiến thức nhưng lại biệt lập với nhau. Những con người biệt lập có thể có tri thức tuyệt vời, nhưng họ không thực sự nhận ra tri thức của mình có ảnh hưởng như thế nào đối với thực tiễn. Các trí thức sẽ có ích nhất khi họ có thể dạy cho thế giới những gì họ biết, và cũng qua đó rút ra những bài học từ thế giới.

"Tôi chắc chắn sẽ rất vui nếu các trí thức có thể đóng góp vào việc phổ biến kiến thức và vì sự tiến bộ của xã hội. Tuy nhiên, lý tưởng này không dễ đạt được. Nó đòi hỏi những người có kiến thức phải thực sự hết mình vì việc truyền bá tri thức và hiểu biết mới.

Xã hội phải sẵn sàng xem xét ý những quan điểm mới, và tất cả các bên phải duy trì các chuẩn mực phê phán cao. Nhiều xã hội, trong đó có Mỹ, gặp khó khăn lớn trong việc nhận ra các mục tiêu này."

Trí thức là gì?

Những ai theo dõi tin tức chắc hẳn đều biết ít nhiều về các trí thức. Nhưng chính xác thì họ làm gì, hay quan trọng hơn, họ nên làm gì? Ngay lúc này, không chỉ ở Việt Nam, mà ở nhiều nơi khác trên thế giới, người ta vẫn đang tranh luận gay gắt về định nghĩa trí thức và vị trí cụ thể của họ trong xã hội.

Nhiều người nghĩ rằng cuộc tranh luận chỉ xoay quanh vấn đề là liệu trí thức có nên chủ động tham gia vào các công việc chung, cố gắng thay đổi thế giới theo cách chính trị nhất hay không, hay họ chỉ nên dành thời gian cho những cuốn sách và phòng thí nghiệm, nói chuyện với học giả và sinh viên, và cố gắng mở rộng chân trời tri thức?

Theo quan điểm của tôi, không nhất thiết phải chọn một cách duy nhất này hay cách khác. Hầu hết mọi người đều đồng ý rằng, một số cảnh sát nên dành thời gian giải quyết vụ phạm tội vừa xảy ra, trong khi số khác nên tập trung phòng ngừa tội phạm sẽ xảy ra trong tương lai. Do đó, các trí thức khác nhau cũng sẽ đóng những vai trò khác nhau.

Tương tự, trong thế giới hiện nay, hầu hết chúng ta đều đồng ý giáo viên nên dạy cho trẻ những kiến thức cơ bản, đồng thời cố gắng vun đắp nhân cách cá nhân của các em. Như thế, một trí thức có thể dành một phần thời gian cho các vấn đề chung và một phần thời gian khác cho các vấn đề học thuật.

Tuy nhiên, rắc rối là ở chỗ: Trong trường hợp cảnh sát hay thầy giáo, chúng ta khá dễ đi đến thống nhất về công việc của họ và những gì họ nên làm. Nhưng với các trí thức, vấn đề không rõ ràng như vậy. Chúng ta có thể định nghĩa họ như thế nào? Sau khi biết trí thức là gì, chúng ta mới có thể biết vai trò họ nên đóng góp cho xã hội ra sao.

Theo tôi, cách tốt nhất để định nghĩa hai chữ "trí thức" là nhìn lại cách người ta sử dụng từ này trong lịch sử. Tôi là người Mỹ, tôi không thể nói nhiều về việc từ này được sử dụng ra sao ở từng khu vực khác nhau. Nhưng tôi nghĩ, sẽ rất thú vị cho cuộc tranh luận ở Việt Nam nếu biết thêm một chút về lịch sử từ "trí thức" ở phương Tây.

Điều đầu tiên cần lưu ý là dù hình tượng được người ta liên tưởng đến các trí thức đã tồn tại từ rất lâu, nhưng ý niệm về một nhóm những con người cụ thể được gọi là "trí thức" còn tương đối mới mẻ.

Từ xa xưa, luôn có những người cố gắng giải thích các sự vật cho người khác, cũng giống như việc có những người luôn tự nhận là hiểu biết nhiều hơn người khác. Tuy nhiên, ngay cả khi các sử gia đôi khi vẫn viết về các trí thức thời xưa, họ hiểu rằng con người (rất nhiều người) thời đó đều thuộc trường phái tư tưởng này hay khác. Họ chủ yếu dành thời gian và sức lực cố gắng phô diễn sự ưu tú của phe mình hơn so với những người còn lại.

Dù chúng ta vẫn làm điều đó hôm nay, nhưng các trí thức đã cố gắng trở nên độc lập hơn, ngay cả khi họ rất trung thành với một nhóm nào đó. Bước ngoặt tạo ra kiểu trí thức mới ở phương Tây là thời kỳ Khai sáng thế kỷ 18. Thời đó, người có học vấn thấy mình mâu thuẫn sâu sắc với các tín ngưỡng giáo hội của thời đại, và họ thường bị nhà thờ hay hoàng gia ám sát hay bắt giữ, bởi dám phản đối các truyền thống đang và đã có sẵn.

Trí thức có ích nhất khi nào?

Tuy nhiên, điều vẫn hay bị bỏ quên là, ngay cả khi chủ nghĩa cá nhân đã biến các nhà tư tưởng thời kỳ Khai sáng trở thành các trí thức phương Tây hiện đại đầu tiên, họ vẫn thường nghĩ cần phải hợp tác với nhau vì cùng một mục đích chung. Thực tế, một trong những thành tựu lớn nhất của thời kỳ Khai sáng châu Âu là cuộc phối hợp để tạo ra cuốn Bách khoa toàn thư về những tri thức hữu ích và tư duy phê phán. Công việc được tiến hành từ năm 1751-1772.

Tuy nhiên, chúng ta không thể định nghĩa "trí thức" ngày nay chỉ bằng cách liên tưởng tới các nhà tư tưởng thế kỷ 18. Chúng ta cũng nên xem xét những gì đã xảy ra với những con người có kiến thức ở Nga thế kỷ 19. Trong giai đoạn này, một thuật ngữ quan trọng nữa là "giới trí thức" đã ra đời để chỉ nhóm người bao gồm các trí thức.

Tuy nhiên, họ là những trí thức có nhận thức rằng họ sẽ không còn ý nghĩa gì trong thế giới này trừ khi họ hết mình chống lại thực tiễn xung quanh. Với các điều kiện khắc nghiệt của nước Nga vào thời điểm đó, dễ hiểu tại sao giới trí thức lại nổi lên, và tại sao họ sẽ tiếp tục bùng nổ ở những nơi các nhà trí thức bị cấm không được truyền bá những kiến thức bổ ích và tư duy phê bán. Tuy nhiên, không phải mọi trí thức theo định nghĩa này đều thuộc giới trí thức.

Điều này đưa chúng ta đến đâu? Tôi chắc chắn sẽ rất vui nếu các trí thức có thể đóng góp vào việc phổ biến kiến thức và vì sự tiến bộ của xã hội. Tuy nhiên, lý tưởng này không dễ đạt được. Nó đòi hỏi những người có kiến thức phải thực sự hết mình vì việc truyền bá tri thức và hiểu biết mới.

Xã hội phải sẵn sàng xem xét ý những quan điểm mới, và tất cả các bên phải duy trì các chuẩn mực phê phán cao. Nhiều xã hội, trong đó có Mỹ, gặp khó khăn lớn trong việc nhận ra các mục tiêu này.

Có một điều luôn khắc sâu trong tôi: Trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay, sẽ rất rủi ro nếu một xã hội nào đó chỉ tạo ra giới trí thức của những người có kiến thức nhưng lại biệt lập với nhau. Những con người biệt lập có thể có tri thức tuyệt vời, nhưng họ không thực sự nhận ra tri thức của mình có ảnh hưởng như thế nào đối với thực tiễn. Các trí thức sẽ có ích nhất khi họ có thể dạy cho thế giới những gì họ biết, và cũng qua đó rút ra những bài học từ thế giới.
Tác giả: GS DAVID PICKUS (ĐH ARIZONA) 
Các bài khác:

Nghiên cứu của Nielsen về niềm tin người tiêu dùng 2011

[Marketing3k.vn] Khảo sát niềm tin tiêu dùng online toàn cầu của Nielsen ,được tiến hành từ năm 2005, theo dõi lòng tin của người tiêu dùng, mối quan tâm lớn và những dự định chi tiêu trong số hơn 28.000 người sử dụng Internet ở 56 quốc gia. Mức độ tự tin của người tiêu dùng ở trên và dưới định mức 100 cho thấy mức độ lạc quan và bi quan.

Trong vòng khảo sát mới nhất, tiến hành từ ngày 30 tháng tám và 16 tháng chín, năm 2011, phần lớn số người được hỏi (64%) đồng ý rằng bây giờ không phải thời điểm tốt để mua những thứ họ muốn và cần, cứ một trong năm người châu Âu và một trong ba người Bắc Mỹ, họ nói không có tiền mặt dự phòng. Triển vọng cho người tiêu dùng ở những khu vực này bi quan hơn là ở thời điểm đỉnh cao của cuộc suy thoái năm 2009. Trong số những người trả lời ở Bắc Mỹ và châu Âu tin rằng họ đang ở trong tình trạng suy thoái, khoảng 60% tin rằng nó sẽ tiếp tục vào năm tới từ 54% trong quý 1 năm 2009.

Mối lo ngại về gắn kết nền kinh tế

Nền kinh tế đang nổi lên như là mối quan tâm hàng đầu trong số 18% của người tiêu dùng trực tuyến trên toàn cầu. Nền kinh tế đứng đầu các mối quan tâm trong Quý 4 năm 2010, trước khi nó được thay thế bởi những lo lắng về tăng giá lương thực trong nửa đầu năm nay. Có công việc ổn định tiếp ngay phía sau với 14% người tiêu dùng, tăng 5% so với ba tháng trước đây. Quản lý sự cân bằng công việc / cuộc sống, tăng giá lương thực và mối quan tâm về sức khỏe – xoay quanh năm vấn đề căng thẳng nhất cho người trả lời.

"Được dẫn dắt bởi một thị trường việc làm bị đình trệ và sự không chắc chắn về tương lai của nền kinh tế toàn cầu, mối quan tâm về an ninh việc làm và các rủi ro kinh tế khác tăng lên một nấc mới trong quý thứ ba ở nhiều nơi trên thế giới", tiến sĩ Bala. Tại Bắc Mỹ, một trong ba lo ngại về nền kinh tế tăng bảy điểm từ quý II và nhiều hơn một-trong-10 người (chiếm 12%) đang lo lắng về công việc ổn định - gia tăng năm điểm so với ba tháng trước đó.

Trong khu vực châu Á Thái Bình Dương, nền kinh tế (18%) và an ninh việc làm (15%) tăng tám và bảy điểm, nền kinh tế cũng là một mối quan tâm hàng đầu với người Việt Nam (19%), Thái Lan (29%) và Singapore (27%) .
Top 5 quan tâm trong Q3/2011

             Việt Nam                                              Châu Á Thái Bình Dương
  •   Nền kinh tế (19%)                                    Nền kinh tế (27%)
  •   Tăng giá thực phẩm (18%)                        Công việc ổn định (15%)
  •   Công việc ổn định (12%)                          Cân bằng công việc/cuộc sống (14%)
  •   Cân bằng công việc/cuộc sống (10%)       Tăng giá thực phẩm (10%)
  •   Tăng hóa đơn dịch vụ tiện ích (9%)           Ý tế (9%)
Các mục đích chi tiêu tương lai

Lần đầu tiên, Nielsen đã yêu cầu người trả lời toàn cầu về cách họ phân bổ ngân sách hàng tháng củ và nơi họ sẽ tăng hoặc giảm chi tiêu nếu ngân sách của họ tăng hoặc cho vay thêm10%. "Các kết quả được tiết lộ," ông bác sĩ Bala. "Áp đảo, có một cảm giác mệt mỏi và khát vọng bị dồn nén cho thời gian nghỉ ngơi, khi hộ gia đình chiêm ngưỡng một tăng 10% trong ngân sách, chúng ta thấy một mong muốn mở rộng phân bổ cho các loại dịch vụ như" du lịch niềm vui / kỳ nghỉ '(29%) và 'vui chơi giải trí và vui chơi giải trí (+20%). Ngoài ra còn có một cảm giác bất ổn kinh tế và sự cần thiết cho lưới an toàn, vì vậy người tiêu dùng cũng có thêm 'tiết kiệm / đầu tư (+25%). "

Ngược lại, khi ngân sách giảm 10%, tùy ý chi tiêu, đặc biệt là trong các lĩnh vực may mặc '(-21%) và ăn uống bên ngoài (-18%) bị giảm. Người tiêu dùng cũng cắt giảm chi tiêu các thiết vị và đồ dùng điện tử (-14%). "Nếu tình hình kinh tế toàn cầu xấu đi, ba khu vực này đặc biệt dễ bị tổn thương" ông Bala tiếp tục nhận định.

Trong trường hợp phải làm gì với một ngân sách nhỏ hơn, câu trả lời cũng chỉ là cắt giảm 10% trong tiết kiệm / đầu tư. "Sự bất đối xứng với mở rộng cho thấy rằng trong khi người trả lời muốn bảo toàn hoặc tăng tiết kiệm và đầu tư của họ, họ cũng nhận ra rằng họ có thể gặp phải khó khăn hơn thực tế kinh tế", tiến sĩ Bala tiếp tục.

Việt Nam – sự không chắc chắn vẫn còn

Niềm tin tiêu dùng của Việt Nam đứng ở mức 96 điểm cho Q3/2011, tụt 7 điểm kể từ đầu năm nay. Ảnh hưởng theo mối quan tâm toàn cầu, hơn hai phần ba (69%) của người tiêu dùng Việt Nam tin rằng họ đang trong một cuộc suy thoái kinh tế, tăng 6% so với quý trước. Và 37% tin rằng Việt Nam sẽ được ra khỏi một cuộc suy thoái trong 12 tháng tới.

Mặc dù có những lo ngại về suy thoái kinh tế, hơn một nửa người tiêu dùng Việt Nam (57%)vẫn còn lạc quan tin rằng triển vọng công việc sẽ tốt đên tuyệt vời trong 12 tháng tiếp theo .. Khi được hỏi về tình trạng tài chính cá nhân trong 12 tháng tới, 53% khẳng định nó sẽ tốt, tuyệt vời, sụt giảm 3% so với quý trước. Mặc dù có triển vọng khá tích cực trên thị trường việc làm và tài chính cá nhân, 61% người Việt Nam nói rằng “bây giờ không phải thời điểm tốt để mua những thứ họ cần” . Điều này khiến cho họ bị coi là phản ứng bi quan nhất trong khu vực.

Tương tự như quý trước, người tiêu dùng Việt Nam tiếp tục đưa tiền mặt dự phòng các khoản tiết kiệm (64%), kỳ nghỉ / kỳ nghỉ (31%), sản phẩm công nghệ mới (27%) và quần áo mới (26%)

So với thời điểm này năm ngoái, người tiêu dùng thực hiện các biện pháp để tiết kiệm chi phí hộ gia đình:

                                                                                       Việt Nam                Châu Á Thái Bình Dương
  • Cố gắng tiết kiệm khí đốt và điện năng                      66%                                 45%
  • Hạn chế mua quần áo mới                                         62%                                 48%
  • Cắt giảm các dịch vụ giải trí bên ngoài                       58%                                 45%
  • Cắt giảm chi phí sử dụng điện thoại                           49%                                 30%
  • Trì hoãn thay thế các vật dụng lớn trong gia đình        48%                                 32%
  • Trì hoãn nâng cấp công nghệ: máy tính, điện thoại      48%                                 38%
  • Cắt giảm các bữa ăn bên ngoài                                 45%                                  35%
  • Cắt các kỳ nghỉ hàng năm                                         40%                                  21%
Khái quát khu vực

Châu Á Thái Bình Dương tiếp tục thống lĩnh danh sách của hầu hết các quốc gia lạc quan với bảy trong số 10 nước có điểm cao nhất về tự tin của người tiêu dùng từ khu vực này. Ấn Độ, mặc dù suy giảm năm điểm, vẫn giữ vị trí hàng đầu với chỉ số 121, tiếp theo là Saudi Arabia (120), Indonesia (114), Brazil (112), Philippines (112), Thái Lan (109), United Arab Emirates (105), Trung Quốc (104), Hồng Kông (104) và Malaysia (101). Hungary (37) là quốc gia bi quan nhất trong quý thứ ba, cùng với Bồ Đào Nha (40), Hàn Quốc, Romania và Croatia (49).

Châu Á Thái Bình Dương và Mỹ Latin là khu vực lạc quan nhất quý cuối cùng với 97 điểm, trong khi khu vực Châu Á Thái Bình Dương được đăng giảm điểm khu vực từ 98 điểm trong quý 2. Trung Đông / châu Phi theo sát tại 96 điểm chỉ số với mức tăng hàng quý hai điểm. Bắc Mỹ đã giảm hai điểm xuống còn 79 và Châu Âu vẫn là khu vực bi quan nhất, ở mức thấp nhất với 74 điểm.

Các nhà tích lũy Châu Á Thái Bình Dương và nhà đầu tư

Châu Á Thái Bình Dương tiếp tục đưa ra kết quả niềm tin người tiêu dùng vững chắc bất chấp sự suy giảm chỉ số điểm của khu vực trong quý thứ ba với 97 điểm. Khu vực này tự hào có tỷ lệ phần trăm lớn nhất về các nhà tích lũy , với 61% cho biết họ có kế hoạch đưa tiền mặt dự phòng vào các khoản tiết kiệm so với mức trung bình toàn cầu là 46%. Một trong ba người tiêu dùng Châu Á Thái Bình Dương trực tuyến cũng có kế hoạch đầu tư vào cổ phiếu / các quỹ tương hỗ, cao hơn đáng kể với bất cứ nơi nào khác trên thế giới, gần như tăng gấp đôi trung bình toàn cầu 18%.

Ấn Độ đã báo cáo số điểm chỉ số niềm tin người tiêu dùng cao nhất trong bảy quý liên tiếp. Trước đó, chỉ có Indonesia, Na Uy đã đôi khi lấy vị trí số một từ Ấn Độ. Sát ngày đằng sau, sự tự tin ở Ả-rập Xê-út đã tăng 13 điểm trong quý thứ ba một chỉ số 120. Tại Saudi Arabia, nhà nước chi tiêu, hỗ trợ bởi giá dầu cao và tăng sản lượng dầu thô vẫn còn là trung tâm điều khiển hoạt động kinh tế ", ông Ashraf Arslan, Giám đốc của Nielsen Saudi Arabia nói. "lạc quan của người tiêu dùng Saudi tăng, đến như là tác động của việc công bố phân bổ ngân sách lớn và tăng chi tiêu đầu năm nay của chính phủ bắt đầu rót xuống, đạt mức công dân trung bình. Chương trình quốc hữu hóa các công việc tích cực vào cuối quý thứ hai kết hợp với tài liệu phát rộng rãi, tăng lương, các khoản vay nhà ở, và các chương trình phúc lợi công bố tiến hành để cải thiện tài chính cá nhân và mang đến triển vọng nghề nghiệp đầy hứa hẹn cho người tiêu dùng Saudi. "

Mặc cho các điều kiện tích cực của toàn bộ nền kinh tế châu Á Thái Bình Dương, 10 trong số 14 nước suy giảm từ ba tháng trước đây. Singapore và Malaysia giảm sự tự tin lớn nhất - giảm chín điểm mỗi nước. "Người tiêu dùng Singapore trở nên bi quan hơn so với quý thứ ba do tổng hợp của nhiều yếu tố", ông Joan Koh, Giám đốc, Nielsen Singapore. "Chúng chứa đựng tương lai mờ mịt về tình trạng bất ổn kinh tế vĩ mô toàn cầu đang rõ rệt hơn, tiếp tục áp lực lạm phát và sự chuyển đổi trong chính trị địa phương. Người tiêu dùng phải chứng kiến sự biến động cao hơn về giá tài sản, tăng thêm nghi ngờ cao hơn về vấn đề làm thế nào để đảm bảo, bảo vệ tài sản của họ.”
AC Nielsen

Tuesday, February 28, 2012

Kinh tế 2 tháng: Lo cho doanh nghiệp

picture
Thông tin về doanh nghiệp được lãnh đạo 

các tỉnh, thành rất quan tâm.
[Marketing3k.vn] Phó giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội Nguyễn Văn Tứ vạch hai nét bút để đánh dấu đoạn quan trọng trong báo cáo kinh tế 2 tháng đầu năm 2012 của địa phương này. “Thông tin về doanh nghiệp tôi rất quan tâm”, ông nói.

Đoạn mà ông lưu ý trong báo cáo ghi, tính đến 22/2, số doanh nghiệp được cơ quan ông cấp đăng ký kinh doanh đã giảm 2,6% so với cùng kỳ năm trước; với số vốn đăng ký giảm tương ứng 36%. Từ các con số này cho thấy dòng vốn trong xã hội đã tỏ ra thận trọng hơn với các ý tưởng kinh doanh mới.

Nhưng chưa hết, Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội trong 2 tháng qua còn làm thủ tục giải thể cho 169 doanh nghiệp, gấp 4,3 lần cùng kỳ năm trước. “Thông thường sau Tết rất ít khi doanh nghiệp xin giải thể, các năm trước rất hiếm, nay số liệu lớn như thế cho thấy tình hình các doanh nghiệp đặc biệt khó khăn”, Phó giám đốc Từ nói tại Hội nghị giao ban sản xuất tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư sáng 28/2.

Thống kê từ cơ quan đăng ký kinh doanh của Hà Nội đã đột biến như vậy về lượng doanh nghiệp chủ động xin giải thể, nhưng đó chưa phải là con số cuối cùng. Ông Võ Sỹ, đồng nhiệm của ông ở Tp.HCM cho biết thêm, lượng doanh nghiệp xin giải thể tính đến tháng 2 tại thành phố này đã là 327 đơn vị. 

Như vậy, tính riêng Hà Nội và Tp.HCM đã có khoảng 500 doanh nghiệp đăng ký giải thể trong 2 tháng qua. Nhưng con số có thể lớn gấp nhiều lần. “Thực tế thì lớn hơn, có thể đến con số nghìn”, ông Sỹ nói.

Sản xuất tốt đến mức nào?

Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhìn nhận, tình hình kinh tế 2 tháng qua có những chuyển biến tích cực. Các ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh đều có bước phát triển. Thu ngân sách nhà nước đạt kết quả tốt, bảo đảm cân đối các nhu cầu chi một cách chủ động… 

Nhận định mang hơi hướng “quy phạm” nói trên, có lẽ mới chỉ nhìn vào các con số tăng trưởng dương mà không xét đến bối cảnh và tính chu kỳ các năm. Bởi vì với nhiều chuyên gia khác, tình hình xấu đi ở nhiều chỉ tiêu.

Cũng dữ liệu từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chỉ số sản xuất công nghiệp IIP tháng 2/2012 đã có sự phục hồi trở lại sau khi giảm rất mạnh trong tháng trước. Cụ thể, IIP tháng này đã tăng 10% so với tháng đầu năm và tăng 22,1% so với cùng kỳ năm ngoái. 

Tuy nhiên, tính chung 2 tháng đầu năm nay, IIP chỉ tăng 3,9% so với cùng kỳ. Một lãnh đạo cấp vụ của Tổng cục Thống kê lưu ý con số này: “IIP rất gần với giá trị gia tăng ngành công nghiệp”, ông nói. “Với mức tăng thấp như vậy sẽ khó để tăng trưởng GDP quý 1 ngành này đạt được mức cao”. 

Con số khác mà ông dẫn thêm là IIP công nghiệp năm 2011 tăng 7%. Nên với diễn biến vừa qua, có thể chắc chắn rằng sản xuất công nghiệp đang chịu những ảnh hưởng rất lớn.

Trong khi đó, ngành nông nghiệp cũng đầy băn khoăn. Đại diện Bộ này cho biết, tình hình thời tiết không thuận lợi vừa qua đã ảnh hưởng đến tiến độ gieo trồng so với cùng kỳ, thêm vào đó chăn nuôi cũng bị ảnh hưởng ghê gớm.

Dữ liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, số lượng đàn trâu, bò của cả nước đã giảm trên 7% so với cùng kỳ năm ngoái. Quan chức từ Tổng cục Thống kê lưu ý rằng, tổng lượng đàn gia súc thường không có biến động lớn nên mức giảm trên 7% là rất đáng chú ý.

Trong bối cảnh thực phẩm vừa qua giai đoạn tăng giá mạnh, ảnh hưởng lớn đến xu hướng giá tiêu dùng, diễn biến kể trên là rất đáng quan tâm.

Đầu ra thu hẹp nhanh

Những lo lắng về đầu ra sản xuất dường như cũng đang lớn dần với các doanh nghiệp, thậm chí chẳng kém gì câu chuyện lãi suất còn cao hay khó tiếp cận vốn vay.

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 2, là tháng sau Tết Nguyên đán, chỉ đạt khoảng 186,46 nghìn tỷ đồng, giảm 2,4% so với tháng trước. Như vậy, tính chung 2 tháng đầu năm đạt 380,28 nghìn tỷ đồng, tăng 22% so cùng kỳ, nhưng loại trừ yếu tố giá chỉ còn tăng khoảng 4,4%, rất thấp so với các năm trước đây.

Ở phía cầu ngoại, diễn biến cũng khá khó khăn khi kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thủy sản mọi năm vẫn duy trì tăng trưởng khoảng từ 20% trở lên, nay số liệu 2 tháng chỉ tương đương cùng kỳ.

Vị đại diện Bộ này tại Hội nghị giao ban lưu ý thêm, rất nhiều mặt hàng nông sản chủ lực sụt giảm mạnh về kim ngạch, đặc biệt là gạo, cà phê… “Xuất khẩu gạo hiện chưa được nhiều, trong khi vụ thu hoạch phía Nam sắp bắt đầu”, đại diện Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phát đi cảnh báo.

Với các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dường như đã “thấm đòn”. Chỉ số tiêu thụ ngành này vào tháng 1/2012 đã giảm tới 24% so với tháng trước đó và giảm 17% so với cùng kỳ. Cho nên, khó khăn thị trường đang thách thức cả nhưng doanh nghiệp quy mô lớn và tiềm lực mạnh. 

Phó giám đốc Sỹ cho biết, trong cuộc họp giữa UBND Tp.HCM và doanh nghiệp vào cuối tuần trước, ngay các tập đoàn, tổng công ty lớn cũng nêu rất nhiều khó khăn và không chắc chắn kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình trong năm nay.

Còn nhiều bất định

Trong khi đó, nhìn về phía trước Bộ Công Thương cảnh báo giá dầu thế giới trong tháng 3 có thể còn tăng; giá các mặt hàng xuất khẩu hầu như không tăng, trong khi nhập khẩu lại tăng cho thấy khả năng nhập siêu có thể cao trở lại trong thời gian tới; lãi suất dù đã giảm nhẹ nhưng vẫn còn làm khó doanh nghiệp, trong bối cảnh khó khăn từ năm ngoái tích tụ đến nay…

“Doanh nghiệp đang rất lo lắng và sốt ruột”, Vụ trưởng Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) Bùi Hà nói. “Mấy tháng mới giảm lãi suất được 1-2%. Hiện tại vay với lãi suất 17-18% thì làm gì bù được…”. 

Ở điểm này, Phó giám đốc Tứ thông tin rằng có nhiều doanh nghiệp nói với ông, với lãi suất như hiện nay thì hiệu quả nhất là không hoạt động, không kinh doanh, không đầu tư làm gì.

“Làm sao có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, cố gắng các chính sách tác động đầu vào, làm khó khăn đầu ra không nên ban hành năm nay, chưa phải thời điểm thích hợp”, ông Tứ kiến nghị. “Ví dụ, nếu tăng giá điện, xăng dầu… thì chắc chắn nhiều loại hàng hóa sẽ lên mặt bằng giá mới”.
Theo Anh Quân
Các bài khác:

Toàn cầu hóa, bản sắc của nhà thơ mang tính thời đại

[Marketing3k.vn] Thơ làm sao có thể mã giải được ba thực thể hoàn toàn khác biệt là bản sắc, tự do và toàn cầu hóa? Đi tìm câu trả lời, chúng tôi đã tham khảo ý kiến của các nhà văn trong nước và các tác giả Việt Nam hiện đang cư lưu ở nước ngoài.

Trần Thiện Đạo: Bản sắc và toàn cầu hóa không thể, không hề có liên hệ trực tiếp với thơ

Trước khi đáp lời, xin được phép xem động từ mã giải đồng nghĩa với giải mã = mổ xẻ, cắt nghĩa. Dựa trên ngữ nghĩa này, thì thơ làm sao có thể mã giải được ba thực thể hoàn toàn khác biệt là bản sắc, tự do vàtoàn cầu hóa?

Bởi trong ba thực thể này, chỉ có yếu tố tự do là tương đối rõ nghĩa; còn bản sắc và toàn cầu hóa thì thuộc hạng từ ngữ khôn thôi bị lạm dụng, đã nghiễm nhiên trở thành sáo ngữ, ý nghĩa loạn xạ - khẩu hiệu đậm đà bản sắc dân tộc là một thí dụ điển hình. Vì vậy, bản sắc và toàn cầu hóa không thể, không hề có liên hệ trực tiếp với thơ.

Thơ vốn là một loại hình văn chương sử dụng ngôn ngữ biến nó thành tác phẩm nghệ thuật. Cũng như âm nhạc, hội họa, điêu khắc và các nghệ thuật khác, nó mặc nhiên mang chức năng thẩm mĩ trong mình. Mà nghệ thuật đích thực thì luôn đứng vững với thời gian, bài thơ nào hay ắt không bao giờ phai: hay hôm nay sẽ cứ còn hay hôm sau.

Nói cách khác: thơ là thơ, thơ nước nào dùng ngôn ngữ nước đó; mỗi bài thơ là một tác phẩm độc nhất, của một cá nhân độc nhất, là ý tưởng, là sở đắc, là sắc thái của cá nhân ấy. Không giống ai, không của ai khác: thơ Nguyễn Du là thơ NgD, thơ Nguyên Sa là thơ NgS, thơ Victor Hugo là thơ VHugo, thơ Thomas Stearns Eliot là thơ TSEliot... Vì vậy mà không thể nói tới bản sắc thơ chung, hay tới bản sắc thơ Việt Nam.

Nhân bản là tính nhân loại phi thời gian. Không thể có thứ nhân bản cổ hủ, hiện đại, thời thượng. Tinh thần nhân bản, tinh thần nhân loại trong thơ, trong văn, trong bất luận động thái, tác hành nào từ xưa đến nay đều giống nhau. Khác nhau ở chỗ nào chăng là ở từng cá nhân mà thôi.

“Mối quan hệ giữa thơ ca và vấn đề tự do của con người” ư? Câu hỏi này nghe hơi lạ. Bởi thơ ca, hay bất luận nghệ thuật nào, không có ‘’mối quan hệ‘’ giao dịch trực tiếp hay gián tiếp với tự do. Có điều, cần phải nhấn mạnh ở đây là: tự do là điều kiện tiên quyết cho mọi suy tưởng, cho mọi sáng tạo - cho đời sống nói chung.

Khái niệm toàn cầu hóa tự nó đã mặc nhiên xóa bỏ mọi lằn ranh. Là bởi hễ còn có lằn ranh thì không thể chuyển tải hết mọi thông tin, không thể tiếp nhận hết mọi thông tin - tóm lại là không thể có hiện tượng toàn cầu hóa (chữ toàn có nghĩa là toàn bộ). Trong tình cảnh chính trị hiện nay ở CHXHCNVN, lằn ranh cứ sờ sờ ra đó, thì giới làm thơ và những giới khác làm sao mà tiếp cận một cách hoàn toàn tự do được. Khiến cho có hiện tượng một vài nhà thơ vì thiếu thông tin nên cách viết vấp phải bước đi của thơ nước ngoài từ mấy thế kỉ trước, tưởng tác phẩm của họ rất mới, rất lạ (…). Cũng có nhiều người chịu khó đọc, chịu khó học hỏi, nhưng chưa tiêu hóa (…) thành thử giống như con tằm ăn dâu rồi nhả ra dâu, không nhả ra tơ.’’ (*)

Nói thêm. Mấy lời giải đáp trên đây đều được tham khảo với nhà nghiên cứu và phê bình Thụy Khuê, tác giả nhiều cảo luận, đặc biệt cuốn Cấu trúc thơ (Nxb Văn nghệ - 1995).

Nguyễn Văn Dân: Hãy nhìn thẳng vào toàn cầu hoá - kể cả toàn cầu hoá văn hoá 

Ở Việt Nam hiện nay, có vẻ như người ta rất ngại nói đến toàn cầu hoá văn hoá. Trên báo chí đã xuất hiện những câu nói đã trở nên quen thuộc như: Toàn cầu hoá kinh tế thì có thể chấp nhận được, nhưng toàn cầu hoá văn hoá thì không! Hay: Một dân tộc mà đánh mất bản sắc văn hoá là mất tất cả. Tuy nhiên, người ta thường không để ý thấy rằng bản sắc không phải là một cái gì bất biến, mà nó luôn vận động và biến đổi trong quá trình tương tác biện chứng giữa cái riêng và cái chung. Các nhà tự nhiên học đã chứng minh được một sự thật rất quan trọng mà do mặc cảm tự ti nên nhiều người thường hay bỏ qua là: Con người, cũng giống như bất cứ một con vật nào khác, xét về bản chất giống loài của mình, vẫn mang nhiều tính chung cơ bản hơn là tính riêng. Xu hướng lựa chọn những cái giống nhau của mọi người vẫn là xu hướng tất nhiên và mang tính chủ đạo. Vì thế, chẳng có gì mà chúng ta phải sợ toàn cầu hoá, và cũng chẳng có lợi lộc gì khi chúng ta tuyệt hoá cái riêng. Chỉ khi nào người ta không có gì đóng góp cho toàn cầu hoá thì người ta mới sợ toàn cầu hoá, sợ người khác không nhận ra mình khi mình gia nhập toàn cầu hoá. Đó là tâm thế tự ti của những người không có khả năng sáng tạo. Cho nên, chúng ta hãy nhìn thẳng vào toàn cầu hoá - kể cả toàn cầu hoá văn hoá - để chủ động hội nhập. Có như thế chúng ta mới vừa có cái để đóng góp cho cái chung, lại vừa tiếp nhận được cái chung để biến nó thành cái riêng của mình, bổ sung cho bản sắc của mình. Ta biến cái chung thành cái riêng chứ không phải là hoà tan vào cái chung để đánh mất cái riêng. Như thế, hoàn toàn không có chuyện đánh mất bản sắc khi hội nhập. Thơ Việt Nam cũng vậy, nhà thơ khi đã có đủ bản lĩnh để hội nhập với toàn cầu hoá thì không bao giờ mất bản sắc. Khi đó, bản sắc của anh ta sẽ là một bản sắc mang tính thời đại chứ không phải là một thứ bản sắc lấy ra từ viện bảo tàng đông lạnh.

Phan Hoàng: Thơ Việt cần bứt phá, vượt thoát khỏi tình cảnh nô lệ hóa về thông tin toàn cầu

Mỗi người sinh ra đều gắn với cái “gien” của quê hương, nguồn cội, dân tộc mình. Nhà thơ chính là người mang cái “gien trội”, văn bản hoá cái bản sắc nơi mình sinh ra, cất lên tiếng nói về nỗi đau, cái đẹp, ước mơ, dự cảm, hy vọng… Trong bối cảnh toàn cầu hoá, thơ Việt vẫn giữ được cái “gien” bản sắc của mình, trên cơ sở tiếp thu những tinh hoa của thi ca nhân loại. Tư duy ngôn ngữ luôn vận động, phát triển không ngừng. Trong ngôn ngữ Việt, chúng ta luôn biết cách tiếp thu những cái hay từ nền văn hoá của các dân tộc khác. Ngôn ngữ thơ là thứ ngôn ngữ tinh lọc. Vì vậy, việc các nhà thơ vừa giữ được bản sắc thơ Việt vừa tìm tòi, cách tân và tiếp thu tư duy ngôn ngữ tinh hoa nhân loại để nâng tầm thơ Việt là điều cần thiết.Hãy thử hình dung, nền văn hoá Việt Nam sẽ đi về đâu nếu chúng ta không có sự tiếp thu những ngôn ngữ gốc Hán, Pháp, Anh, Nga, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha,… để làm giàu có cho tiếng Việt. Cũng như nền thi ca Việt Nam sẽ đi về đâu nếu chúng ta chỉ dẫm chân tại chỗ với các thể thơ lục bát, tứ tuyệt hay song thất lục bát, với những lối tư duy thơ chỉ đơn thuần niêm luật, vần điệu của những thế kỷ trước.

Ở tất cả mọi dân tộc, mọi thời đại, nhân bản luôn là vấn đề cốt lõi cho sự tồn tại của con người, sự tồn vong của dân tộc hay thể chế. Ở thời kỳ hiện đại này cũng vậy. Tuy nhiên, điều đáng lo hiện nay của chúng ta là khi đời sống vật chất ngày càng được nâng cao thì hình như vấn đề nhân bản nảy sinh nhiều điều đáng lo ngại: ngoài xã hội thì đầy thủ đoạn lừa dối hại nhau trong kinh doanh, nạn tham nhũng cửa quyền hoành hành, cướp giết hãm hiếp thường xuyên xảy ra, thầy giáo quấy rối tình dục sinh viên, học trò đánh thầy cô các người mẫu khoả thân vô tội vạ, đồng nghiệp mạt sát sau không còn văn hoá trên mạng...; còn trong nhiều gia đình thì vợ đốt chồng, cha hiếp con, con đánh chửi và thậm chí giết cha mẹ… Những chuyện đó không còn cá biệt nữa mà nhan nhản hàng ngày trên truyền thông báo chí. Sự sợ hãi, mất niềm tin vào đời sống ám ảnh không ít người dân.

Trong khi đó, theo tôi, các nhà thơ chưa có thói quen dấn thân nhiều vào đời sống để góp phần cảnh báo, phản biện những cái xấu và dự cảm, hướng thiện những điều tốt đẹp về đời sống. Không ít nhà thơ vẫn đi bên lề đời sống, xa rời những vấn đề cốt lõi của nhân bản hiện đại.Khi sáng tác một bài thơ, người làm thơ hoàn toàn tự do trong thế giới sáng tạo riêng mình. Không có được sự tự do về tâm hồn, tư tưởng, thẩm mỹ thì người làm thơ chỉ có thể “minh hoạ” đơn thuần cho một đối tượng nào đó. Muốn vượt qua lằn ranh toàn cầu hoá về thông tin thì thơ Việt không nên tự mình “nô lệ hoá” cho bể thông tin ấy. Thơ Việt cần có bản lĩnh, tự tin và không ngừng khám phá, học hỏi, chọn lọc những cái hay từ nền thi ca các dân tộc khác để “bay” trên đôi cánh thơ riêng mình.

Đỗ Quyên: Không thể có sắc màu chung cho các lá cờ thơ

Cảm tưởng của tôi khi đọc bài vở và được mời vào chuỗi phỏng vấn này: rất hay và cần thiết; vừa “xưa như trái đất” vừa mới như… mặt trời mặt trăng! Hôm nay, đặt Thơ lên kiềng ba chân “Bản sắc - Tự do - Toàn cầu hóa” chúng ta tiếp tục làm ra món ăn tinh thần mới lạ kể từ khi con người biết luận bàn về Thơ! (Tất nhiên, các đồng nghiệp khác có thể thay Thơ bằng đối tượng đồng đẳng khác như Âm nhạc, Ẩm thực, Tình yêu, Gia đình…). Trong ba chân, Toàn cầu hóa là cách nói ở thời hậu hiện đại của nội dung Nhân loại. Hai chân kia: Bản sắc vốn là Dân tộc có sau khi con người chuyển hình thức sống bầy đàn sang cộng đồng; còn Tự do thì mãi mãi là Tự do! Với “đầu bếp” Ngô Hương Giang, Thơ là mã giải. Và, với các người viết khác, viết cho các đối tượng khác, Thơ có thể sẽ làm những hành vi khác cũng trên kiềng ba chân đó.

Tôi hiểu chủ ý của câu hỏi nhưng cho rằng, khi nói “bản sắc thơ”, ta những muốn phổ cập hóa “bản sắc” vốn là ý niệm khá kén bạn đồng hành; như thường là văn hóa, dân tộc, sắc dân, địa phương, quốc gia… Ở đây, có thể hiểu bản sắc thơ làphong cách/ phong thái thơ, tính cách/ tính chất thơ, đặc trưng/ đặc điểm của thơ… - là các khái niệm căn bản và quen thuộc nhưng khó có một định nghĩa chuẩn, về lý luận - phê bình văn học cũng như thực hành sáng tạo.

Trong cảnh quan toàn cầu hóa, như mọi lĩnh vực văn nghệ khác, với tư cách đối tượng, thơ cũng bị hoặc được thay đổi bản sắc của mình; và với tư cách chủ thể, bản sắc thơ đã dự phần làm quá trình toàn cầu hóa đa sắc nhiều màu hơn. Ở tương quan kép, khi thơ là kết quả, bản sắc thơ từng bị nguy cơ hết tính thơ, mất chất thơ trong thời (hậu) hiện đại; khi thơ là nguyên nhân, bản sắc thơ cũng phải nhận bản án Nàng Thơ đã bỏ cuộc chơi - bỏ chú Cuội bỏ chị Hằng theo ông đại gia Bill Gates leo lên lưới!

Nhớ lại, toàn cầu hoá, với nghĩa nguyên thủy, khởi đầu khoảng thế kỷ 15, nhất là khi F. Magellan thực hiện chuyến viễn dương năm 1522; còn thuật ngữ “toàn cầu hoá” ra đời vào những năm 1950, và được được dùng chính thức trong giới chuyên môn và đại chúng từ những năm 1990. Nếu theo các mốc thời gian trên tìm đến một vài hiện tượng quan trọng của thơ thế giới qua các trào lưu văn học tiêu biểu, chúng ta không thể không nhận ra rất nhiều đổi thay xung quanh thơ. Ví dụ: thơ, một mặt, giữ bản sắc “truyền thống” như là hình thức đặc sắc của nghệ thuật bằng phương tiện ngôn ngữ; mặt khác nó tự thay đổi để có thêm bản sắc “hiện đại” như thành phần của xã hội mà ngôn ngữ là cả phương tiện lẫn mục đích. Không ít người tưởng bản sắc và truyền thống là bất biến, là thuộc về quá khứ. Thì đây, toàn cầu hoá là ví dụ đẹp và mạnh cho việc thay đổi khái niệm bản sắc nói chung, trong đó bản sắc thơ giống như “Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa”.

Bản sắc thơ Việt là đề tài mà mọi người, dù ở chính kiến và thẩm mỹ nào cũng có thể không quá khó khăn khi cùng muốn đưa các nét chính yếu. Để kịp dùng tại đây, tôi sẽ nêu nhanh Dàn bài 21 đặc điểm thơ Việt mà mình hằng lưu tâm dù chưa thể hoàn thiện…

Nói chung về thơ Việt: 1. Nhạc điệu uyển chuyển; 2. Tứ thơ quyết định ý, nghĩa và thi ảnh; 3. Thiên về cảm tính, diễn tả; nhiều tình mà ít chân. 4. Hình tượng đẹp, lôi cuốn; 5. Không chuộng tư tưởng, triết lý; 6. Ít biến động về thi pháp; chậm thay giọng điệu; hiếm bất ngờ; 7. Ngôn ngữ tinh tế, chiều chuộng tu từ, lơ là cú pháp; 8. Cá tính tác giả không nổi trội; 9. Hình thể khá ổn cố; cấu tứ không đa dạng; 10. Không gần văn xuôi, văn nói; 11. Lục bát là thể loại gốc; 12. Nội dung trọng lòng yêu nước, tình đồng bào, nghĩa gia đình; nhân bản mạnh hơn nhân sinh; 13. Hướng ngoại hơn là hướng nội: ít chất liệu đời sống cá nhân; nặng về thời đại, thế sự, thiên nhiên; 14. Chịu ảnh hưởng sâu nặng của thơ Đường luật;15. Cái Tôi ít được là chủ thể; 16. Quan hệ Thiên - Địa - Nhân lấn át quan hệ Người - Người; con người cần thiên nhiên hơn là ngược lại; 17. Sáng tác vượt xa phê bình, học thuật; 18. Giỏi về bình điểm, khá về nhận định; non về phê bình; chậm về nghiên cứu; trống về lý luận; 19. Ngâm và vịnh là các cách thưởng thức đồng sáng tạo; 20. Cuộc cách mạng đầu tiên là phong trào Thơ mới 1932-1945 thay đổi hầu hết bản sắc thơ Việt, với ảnh hưởng của thơ Pháp và từ đó tới nay với nhiều nền thơ thế giới; 21. Đóng góp hữu hiệu nhất với xã hội thời hiện đại là dòng thơ cách mạng và thơ chiến tranh .v.v…

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, rõ rằng bản sắc thơ Việt biến đổi chậm. Tại sao? Nó có cần thiết biến đổi không? Nếu cần, làm thế nào? Và nếu không thì sao? .v.v… Các câu hỏi đó, thiển nghĩ, không hề dễ trả lời. Xin tâm sự và mong được hiểu đúng ý: kể từ khi biết làm thơ và nhất là khi biết-mình-là-người-Việt, tôi thấy: Một, bản chất của thơ, so với các loại nghệ thuật khác, vốn cực kỳ tinh tế, những gì không-thơ không thể nào can thiệp vào; Hai, - quyết định - dân tộc Việt chúng ta phải nói là một dân tộc khá đặc biệt, với không ít các yếu tính mà nhiều dân tộc khác không có. Đây, một ví dụ như là nghịch lý trong vấn đề thơ: rất say mê thơ, sành thơ; trong tiếng Việt có chữ kép “thơ ca” nhưng dân Việt ít khiếu thẩm âm mà thơ Việt, với tôi, nhạc tính là đầu bảng! (Điều này ra ngoài bài phỏng vấn; nếu có dịp bàn về:“Việt tính: Mã giải cho vấn đề toàn cầu hóa bản sắc thơ”, chúng ta lại tiếp tục); Ba, nếu tạm dùng tiêu chí theo một số điểm chính trong Dàn bài trên thì quả là bản sắc thơ Việt còn nhiều so lệch với chuẩn mực thơ-toàn-cầu mà thực chất là chuẩn mực văn hóa, ngôn ngữ của Tây Âu và nhất là của Bắc Mỹ.

Nhưng ngay cả thơ Trung Hoa - một nền thi ca “hùng mạnh” đến thế, “lâu đời” đến thế, “giàu có” đến thế - cũng không thể dễ nhập vào xu hướng thơ toàn cầu. Vấn đề của thơ Trung Hoa là ở văn hóa ứng xử: “sông có thể cạn, núi có thể mòn”, nhưng tôi đồ rằng, văn hóa Trung Quốc chắc sẽ không bao giờ cải đổi để lọt vào và tạo ảnh hưởng trong khuôn viên văn hóa khác. Trong khi đó thơ Nhật là một dòng thơ Đông phương gần như duy nhất tiếp cận, đối thoại, rồi chinh phục được thơ-toàn-cầu.

Cuối cùng, tôi vững tin, giữa gần một chục bộ môn văn nghệ, thơ là loại hình nghệ thuật mang bản sắc dân tộc hơn hết. Khi Xuân Diệu viết “Ta là một, là riêng, là thứ nhất”, cũng nên hiểu thi sĩ đã coi thơ là một chủ thể trữ tình. Vâng: Thơ là một, là riêng, là thứ nhất! Nếu đã không thể có quan niệm văn hóa của quốc gia này “hay” hơn văn hóa quốc gia khác, thì cũng không thể có chuyện thơ Trung Quốc “hay” hơn nước Mỹ (cho dù “Trăng Trung Quốc” từng có mùa có thời “tròn hơn trăng nước Mỹ”!?). Thơ là văn hóa, là dân tộc. Có dân tộc lớn mạnh, có quốc gia yếu nhỏ, có nước bé nghèo, có văn hóa trẻ; chứ không hề có chuyện dân tộc “hay”, quốc gia “hay”, văn hóa “hay” hơn dân tộc, quốc gia, văn hóa khác! Ấn tượng “hay” thuộc về tâm lý, tình cảm, không bao giờ khách quan. Khi ta yêu một cái gì đó, gắn bó với nó thì cái đó trở thành “hay” với ta, dù có thể “dở” với kẻ khác. Thơ là vậy! Nói gọn: thơ Việt là hay với người Việt; thơ Pháp thì hay với dân Pháp v.v... Tôi khó tin có một người Việt Nam “bình thường”, dẫu am hiểu văn hóa và ngôn ngữ Pháp hệt như dân Pháp, lại cảm thấy thơ Pháp hay hơn thơ Việt. Thơ Pháp đúng là “mạnh và mềm” hơn thơ Việt, “sáng và sang” hơn thơ Việt, vì thế dễ đến với các dân tộc khác hơn thơ Việt. Thơ Mỹ “tươi trẻ” hơn thơ Nga, “lý trí” hơn thơ Nga, “gãy gọn” hơn thơ Nga, cho nên dễ cách tân hơn thơ Nga. Thơ luôn là vậy! Trong Liên hoan Thơ châu Á - Thái Bình Dương lần I tại Việt Nam hồi đầu năm, qua bài vở, dường như chỉ có tham luận viên N.V. Preiaxlov là chống lại toàn cầu hóa, và ông đã dùng “vũ khí” thơ. (Về tham luận của nhà thơ Nga ấy, tôi không ủng hộ đích của bài nhưng rất thích logic và tính cách Nga trong đó. Theo tôi nghĩ, toàn cầu hóa có thể gây bất lợi nào đó cho các cường quốc như Pháp, Nga; còn với Ấn Độ nước lớn, Việt Nam nước nhỏ nhưng cùng là nước đang phát triển thì “hại bất cập lợi”). Tôi đã nói khá dài và nhiều chỗ có thể chưa chặt chẽ, nay buộc nút: với toàn cầu hóa, các cuộc tranh tài “cá chép vượt vũ môn” trên mọi lĩnh vực đều có thể phải đối mặt cho mọi quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Riêng ở sân thơ của đình làng thế giới, sẽ không dễ dàng thiết lập các màu sắc chung cho tất cả lá cờ thơ đã có sắc màu riêng, trong đó có Việt Nam!

Nhân bản hiện đại dựa trên các triết thuyết, tôn giáo, đạo đức, khoa học, công nghệ quan trọng nhất đã làm đổi thay đời sống của nhân loại trong thế kỷ 21. Văn bản nổi tiếng Hiến chương Nhân bản 2000: Lời kêu gọi một Chủ nghĩa nhân bản Toàn hành tinh và Mới có lẽ là tuyên ngôn chính trị chính thống và mới nhất về tư tưởng này? (Khoảng 10 năm trước, dịch giả Nguyễn Ước đã cho ra đời ở Toronto ấn bản tiếng Việt đầu tiên từ toàn văn bản tiếng Anh).

Tôi không biết nhiều về ảnh hưởng của nhân bản hiện đại trong văn chương, nhưng có ấn tượng rằng, nhân bản hiện đại xuất phát từ các phạm vi, lĩnh vực “đại tự sự” nên nó tác động mạnh tới tiểu thuyết, truyện ký, kịch nhiều hơn là với thơ; vì văn xuôi thường coi trọng đề tài, trong khi ở thơ là cách viết. Và cũng vì, trong văn nhiều chủ đề ta-bu vẫn có thể nói “thẳng tưng”, còn thơ mà động đến thánh chiến, bạo loạn, vô luân, môi sinh... nếu không cao tay thì hết thành thơ! Trong ý nghĩa này, tôi thêm hiểu vì sao Giải Nobel văn học năm 1974 khi đã dành cho H. Martinson - chủ nhân của các tác phẩm “có từ giọt sương đến vũ trụ”, nhất là trường ca Aniana (1956) được xem như “lịch sử tượng trưng của loài người đã đánh mất những giá trị tinh thần, và Martinson được gọi là nhà thơ đầu tiên của thời đại vũ trụ” (vi.wikipedia.org). Thật cảm kích và may mắn khi bản tiếng Việt của "một trong những sử thi vĩ đại nhất của thời hiện đại" đang được Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây (Việt Nam) cùng Bộ Văn hóa Thụy Điển cho hoàn thành, với lời tựa rằng, “Lời cảnh báo của Harry Martinson không thừa. (…) Hành tinh của chúng ta vẫn chưa bị khai tử chính là nhờ những hồi chuông báo động liên tục, kế tiếp nhau không mệt mỏi như thế.” (Hoàng Hưng)

Có điều này tôi luôn áy náy: trong khi chủ nghĩa nhân bản hiện đại thể hiện ưu việt của mình là tiếp tục bảo vệ con người ở kỷ nguyên khoa học mang tinh thần toàn cầu hóa, nhưng lại vô cùng khắc nghiệt trước phong cách phản biện của tư tưởng hậu hiện đại - sản phẩm cụ thể của toàn cầu hóa. Như thế có “đắc nhân tâm” không? Lại nhớ bài Thất bộ thi lưu truyền của Tào Thực thời Tam Quốc: “Cẳng đậu đun hạt đậu/ Hạt đậu khóc hu hu/ Cùng sinh ra một gốc/ Nỡ hại nhau thế ru?”

Vì khuôn khổ của tờ báo, cho tôi nói chỉ trong chủ điểm toàn cầu hóa, chứ không bàn đến câu chuyện muôn thuở về quan hệ tay đôi Tự do và Thi ca. Trong kiềng ba chân ở câu hỏi 1, Tự do là chân ít thay đổi tên gọi nhất, nhưng không vì thế mà không mang các hình hài mới. Biết bao định nghĩa về Tự do, biết bao lời thơ về Tự do mà bài Tự do (Liberté) của P. Éluard gần thế kỷ nay luôn là biểu tượng! Thời gian vật lý và không gian địa lý có định nghĩa lại Tự do không? Có! Chính Toàn cầu hóa đang cho Tự do một dáng vóc khác hẳn. Nội dung cuộc phỏng vấn này cũng có thể hiểu là: Nhà thơ trong thời Toàn cầu hóa dùng đôi cánh Tự do để sáng tạo sao cho Thơ giữ Bản sắc dân tộc mà không mất hút trong không gian khoáng đạt hơn không gian quốc gia gốc gác.

Đôi cánh Tự do của văn nghệ sĩ thường hình thành từ ít nhất hai điều: phong thái của tác giả (Nội lực) và môi trường xã hội, thời đại, chính quyền (Ngoại cảnh). Khác với văn xuôi, chất Tự do của các trang thơ là do nội lực tác giả quyết định. Bởi thế, quan hệ giữa thơ và sự tự do của con người trong bối cảnh toàn cầu hóa không khác nhiều lắm với khi “đèn quốc gia nào quốc gia nấy rạng”.

Hiện nay, thường ở đa số nước khác chỉ có hai thành phần quyết định sinh mệnh thơ đương đại trên nền thi ca quốc gia; đó là thi sĩ và độc giả. Xã hội làm phụ trợ. Nhà nước chủ yếu là cái hầu bao xì mân-nì khi cần. Nền thơ Việt Nam đang có bốn thành phần: nhà thơ, bạn đọc, xã hội (công chúng, tổ chức, hội đoàn…) và nhà nước. Xem ra bốn chân của bàn-thơ-Việt đều là “VIP”! Mà khó có VIP chịu thua VIP nào? Như thế, làm gì cũng phải ngó nghiêng kê chèn sao cho yên bằng với “mặt đất” - cuộc sống toàn cầu hóa với đủ các loại “sóng thần”, “động đất” từ kinh tế cho chí đạo đức. Bởi vậy, 101 vấn đề, hay cũng như dở, xung quanh thơ Việt trong các giai đoạn Hậu chiến, Hậu đổi mới sinh ra từ đó tới nay mà câu hỏi trên là một.

Với các nhà thơ Việt: Còn biết làm gì hơn, giống như lời Lê-nin: Làm thơ, làm thơ nữa, làm thơ mãi! Chỉ sợ nhà thơ hết thơ, khi trang chữ không còn là trang giấy cũ mà nay đã là cả không gian vô hạn của thế giới phẳng. Không có biên giới địa lý, lằn ranh ngôn từ nào cấm cản được thơ, dù - có vẻ nghịch lý - thơ là riêng tư nhất, khó chuyển dịch nhất!

Với bạn đọc thơ: Hãy trở thành đồng tác giả của chúng tôi!

Với xã hội và với nhà nước: Xin dành sang diễn đàn khác. Nhưng tôi không kìm nêu một ý kiến cụ thể vừa phác thảo: Nên chăng Hội Nhà văn Việt Nam (hay là Hội Nhà văn Hà Nội, Viện Văn Học Việt Nam, Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh, Làng Chùa xã Sơn Công, Trang mạng Thơ Tân hình thức Việt v.v… - miễn là tổ chức, diễn đàn, địa phương nào trong hay ngoài hình chữ S có tâm có tầm với tam giác vàng Thơ Việt - Bản sắc dân tộc Việt - Toàn cầu hóa) tổ chức Hội thảo, đại để, “Vấn đề bản sắc thơ Việt trong bối cảnh toàn cầu hóa: Thuận và nghịch?”. Các điều trên chưa có gì đáng nói. “Độc” là ở chỗ Hội thảo này mang hình thức như một… cuộc thi! Các tham luận viên tạm không “tung tăng” nữa mà “Thi lệnh như sơn” phải làm đúng dàn bài; ví như: 1. Dẫn giải tiêu chí của riêng mình về bản sắc thơ Việt; 2. Trả lời các câu hỏi của Ban tổ chức (Tại sao bản sắc thơ Việt thường chỉ bay lượn như sáo diều trên lũy tre làng cánh đồng thôn, kể cả khi ra đến phố thị Bolsa? Nó có cần thiết quá giang máy bay tên lửa trong thế giới phẳng không? Nếu cần thì làm sao? Và nếu không? v.v…); 3. Nêu các câu hỏi cho Ban tổ chức (và chúng có thể trở thành câu hỏi để Ban tổ chức hỏi lại Tham luận viên trong các kỳ sau)? 4. Sau Hội thảo trao giải thưởng cho tham luận đáng đồng tiền bát gạo nhất (Sẵn dịp, làm tiền lệ loại Giải thưởng Phê bình - Nghiên cứu - Lý luận thơ Việt mà nước Nam ta chưa có; bên xứ Ăng-lê có Giải thưởng Job Hatchet dành cho phê bình văn học) 5. Làm Kỷ yếu, dịch ra các thứ tiếng chính (và cả tiếng Thụy Điển) rồi phát hành khắp thế giới phẳng bằng đủ các kiểu phương tiện tiểu ngạch đại luồng; 6. Lập một Hội đồng chuyên môn “thửa” các loại “chuông” từ kết quả của Hội thảo, và cắt cử những gương mặt giọng nói xứng đáng mang đi "đánh xứ người"; 7; v.v…; 8. Lặp lại các Điều 1 - 7 sau vài năm tùy hiệu quả.

Để kết thúc, mời tất cả hãy cùng thay chữ “thơ” vào chữ “văn hóa” trong câu sau: “Ngày nay, do sự suy yếu của các đường biên quốc gia, chúng ta thấy được những nền văn hóa nhỏ bé, thầm lặng, từng bị lãng quên đang hồi sinh và bộc lộ những dấu hiệu sống tích cực trong dàn hòa tấu vĩ đại của một hành tinh đang toàn cầu hóa.” (Mario Vargas Llosa; theo Văn nghệ)

Hoàng Vũ Thuật: Thơ Việt không thể nằm ngoài guồng quay cơn lốc nền công nghệ số hóa và toàn cầu hóa

Toàn cầu hóa như một cái sân chơi hội đủ các gương mặt văn hóa nhân loại trên một mặt phẳng. Ở đó mỗi dân tộc càng thấy rõ mình là ai, như thế nào. Biết mình, biết người đó là phương cách sống đồng thời cũng là phương cách tiếp thu tinh hoa lẫn nhau giữa các dân tộc. Khi xuất hiện, có mặt trên bản đồ thế giới, mỗi dân tộc đã tự định hình bản sắc. Hệ quả tất yếu, thơ ca mỗi dân tộc cũng mang bản sắc riêng biệt của dân tộc mình. Và mỗi nhà thơ, sáng tác của anh ta cũng ít nhiều khẳng định bản ngã, dấu ấn riêng rồi. Đó là nét đẹp mang tính khu biệt. Thơ Việt không thể nằm ngoài guồng quay cơn lốc nền công nghệ số hóa và toàn cầu hóa. Vì thế, làm sao bản sắc thơ Việt trong bối cảnh ấy khỏi bị xâm thực, gặm mòn và biến dạng? Một nghìn năm Bắc thuộc không đồng hóa nổi đời sống tinh thần con người Việt. Nhưng nếu khư khư ôm lấy những gì của truyền thống mà không chịu mở cửa đón luồng gió mới, thu nhận nguồn dinh dưỡng thơ ca từ bên ngoài thì hậu quả của nó là sự trì trệ, cứng nhắc, rập khuôn và dẫm chân tại chỗ.

Từ lâu thơ ca là phương thuốc linh diệu ràng rịt mọi vết thương và nuôi dưỡng đời sống tinh thần con người. Thơ như tấm gương chung để nhân loại soi và thấy mình trong đó. Chúng ta có thể đến với nhau, hiểu nhau, gần gũi nhau hơn nhờ sức mạnh của thơ. Song, cùng với sự phát triển của thành tựu khoa học và công nghệ, thơ ca hiện đại không thể đắm mình trong tiếng du dương êm ái quen thuộc một thời. Hạnh phúc ngày nay đâu còn: Bên chàng đọc sách, bên nàng quay tơnữa. Cái ác bây giờ cũng đã nằm ngoài giới hạn. Tôi gặp ở Mỹ, Nga, châu Âu những con chim không biết sợ hãi khi con người đến gần nó. Tôi từng đưa mẩu bánh cho một chú sóc dưới chân tượng Nữ thần Tự do, như đưa cho một em bé. Nếu như chúng ta bắt đầu từ hôm nay thực hiện một chính sách thân thiện, liệu một trăm năm sau những con chim ở Việt Nam có thể gần gũi được với con người như vậy. Nhân bản hiện đại trong thơ như một hối thúc tâm thức sáng tạo ở mỗi nhà thơ?

Toàn cầu hóa diễn ra toàn bộ trên các lĩnh vực của đời sống, nó tác động mạnh mẽ, rõ rệt đối với văn hóa nói chung và thơ nói riêng. Nhà thơ được tự do hơn trong quyền tiếp nhận và thử nghiệm những trào lưu thi ca. Quyền tự do của con người là tối thượng. Khi quyền tự do con người bị xâm phạm thơ ca phải lên tiếng. Sự dũng cảm của nhà thơ biểu hiện đầu ngọn bút. Nhà thơ ăn theo, nói leo thể hiện sự hèn yếu của mình trước biến động của xã hội. Thơ có mặt và đụng chạm mọi vấn đề nóng bỏng, nổi cộm trong đời sống. Nếu thơ bị áp lực, thiếu đi sự tự do và dũng cảm, thơ có thể bị diệt vong.

Thơ Việt không thể đứng yên. Tôi vốn không thích những người ngủ quên hoặc đứng yên. Cái lằn ranh mà ta gọi đó rất mơ hồ. Anh hãy bước đi, không nên đắn đo phía trước. Nhiều khi tôi ra khỏi nhà mà không biết mình đi đâu, nhưng rồi tôi vẫn thấy không có cuộc ra đi, hay nói cách khác sự thoát ra khỏi mình là vô bổ. Khi tôi viết cũng vậy, không đắn đo trước một vấn đề có rào chắn nào đó. Sáng tạo là tự do. Cái mà ta gọi là phương hướng sáng tác hiện nay do một tổ chức, hay một bộ phận nào đó cài đặt, chính là sự khuôn phép trong sáng tạo. Thơ không có khuôn phép nào cả. Thơ là con người với tất cả thân phận của nó, đấy cũng là thân phận cả một dân tộc thông qua cảm xúc và tư duy của một cá thể.

Khế Iêm: Toàn cầu hóa là một cơ hội tốt cho thơ Việt vươn vai, lớn dậy

Trước hết, chúng ta cần đặt câu hỏi, trong bối cảnh thế giới giống như một ngôi làng, chuyện gì sẽ xảy ra khi có sự va chạm giữa hai nền văn hóa khác biệt? Và khi có sự va chạm, thái độ của chúng ta sẽ như thế nào?

Trường hợp của cộng đồng di dân Việt, khi mới đến Mỹ, những người Việt đầu tiên được đưa đi sinh sống rải rác khắp các tiểu bang Hoa Kỳ, nhưng rồi chỉ một thời gian ngắn, bằng mọi cách, họ tìm về sống tụ hợp với nhau nơi những địa danh như Quận Cam (Orange County), San Jose thuộc California, Houston thuộc Taxas … nơi đây, họ hình thành một cộng đồng nói tiếng Việt, nhà hàng Việt, chợ Việt, báo chí Việt, những sinh hoạt ca nhạc, hội thảo văn hóa cuối tuần và mở những lớp dạy Việt ngữ cho những thế hệ thứ hai để họ khỏi quên tiếng Việt… Điều này cũng không lạ vì văn hóa là một strange attractor (điểm quyến rũ kỳ lạ) hay yếu tố trật tự, theo lý thuyết hỗn mang (Chaos Theory), lôi cuốn những người cùng một nền văn hóa xích gần lại với nhau. Chúng ta thấy, bất cứ cộng đồng di dân nào cũng vậy, họ quây quần thành những cộng đồng như những sắc dân da đen, Trung Hoa, Nhật, Việt nam, Lào, Đại Hàn… Họ sống thu lại, phản ứng với văn hóa dòng chính, bảo tồn bản sắc văn hóa của riêng mình. Khi sống chung với nhau, phát sinh những tiêu cực, họ lại có khuynh hướng sống xa nhau ra, nhưng cũng không quá xa, giống “như một bầy chim tác động hỗn loạn, vô trật tự (phản hồi tích cực) khi bay khỏi tàn cây, cố không đụng vào nhau trong lúc khởi đầu, kết quả là chu trình phản hồi tiêu cực hình thành và bất thình lình bầy chim bay theo những dạng thức rất trật tự, bởi những cánh chim có khuynh hướng bay lại gần nhau nhưng sẽ tự động rời xa, điều chỉnh khoảng cách khi quá gần. Sự hỗn loạn xảy ra ngay trong những cánh chim bay, vì lúc nào cũng có những yếu tố tình cờ như sức gió, độ cao, hay những xáo động của từng cánh chim tác động lên nhau, kết quả là dạng thức bay của bầy chim, không lúc nào giống lúc nào, nhưng trông rất đều đặn nhịp nhàng”. Đó là hình ảnh của những người Việt thuộc lớp di dân thứ nhất. Khi xa cách quê hương, họ có tâm lý tìm lại những gì đã mất, hình thành khuynh hướng bảo tồn văn hóa mạnh mẽ, ít quan tâm và khó hội nhập với nền văn hóa mới vì những khác biệt ngôn ngữ.

Những thế hệ thứ hai, nay đã trưởng thành, tiếng Anh là ngôn ngữ chính, họ không đủ tiếng Việt để đọc thơ văn Việt, thế là văn học hải ngọai rơi vào bế tắc. Nhưng nếu chúng ta học hỏi kỹ năng của nền văn học bản địa, ở đây là văn học Mỹ, thay đổi cách sáng tác để dễ dàng trong việc dịch thuật, chúng ta có thể tiếp cận được với thế hệ người Việt thứ hai và thứ ba, đồng thời lại có thêm số người đọc khác ngôn ngữ và văn hóa, chẳng phải chỉ là người đọc Mỹ, mà còn những người đọc từ những cộng đồng các sắc dân khác. Đây là trường hợp thơ tân hình thức Việt.

Một thí dụ khác là những thế hệ thứ hai như đạo diễn người Mỹ gốc Việt, Tony Bùi (phim Mùa len trâu) Đạo diễn Pháp gốc Việt Trần Anh Hùng (Mùi đu đủ xanh), Dustin Nguyễn… và hàng loạt những đạo diễn người Mỹ gốc Việt trẻ tuổi khác, học hỏi những kỹ thuật điện ảnh phương Tây quay về nước sản xuất những cuốn phim được đánh giá cao trong các liên hoan phim quốc tế. Chắc hẳn, không phải vì thương mại, mà có lẽ là niềm say mê điện ảnh cùng với những khao khát tìm về với văn hóa gốc. Một cách tự nhiên, họ là những người đầu tiên giới thiệu với thế giới nền văn hóa Việt, qua một phương tiện được đào tạo ở các nước phương Tây. Trong lĩnh vực thơ, chúng tôi cũng có được sự tiếp tay của một số bạn trẻ có khả năng của cả hai ngôn ngữ tiếng Anh và tiếng Việt để làm công việc dịch thuật.

Đối với thơ, toàn cầu hóa có nghĩa là sự giao lưu giữa các nền thơ trong thời đại đa văn hóa, qua đó chúng ta có thể học hỏi và làm giàu cho thơ Việt. Ở đây cũng giống như câu hỏi thứ nhất, chúng ta có hai trường hợp:

a/ Những nhà thơ tiếp tục sáng tác, cô đọng ngôn ngữ, đào sâu vào những giá trị văn hóa mà chỉ người đọc Việt mới có thể thưởng ngoạn.

b/ Tìm kiếm cái hay mới và thay đổi cách sáng tác để dễ dàng chuyển dịch, đưa thơ Việt thóat khỏi những trở ngại ngôn ngữ, đến được với những người đọc khác văn hóa.

Trong hai trường hợp trên, thơ Việt ở cả trong lẫn ngoài nước, vẫn tiếp tục sáng tác chủ yếu cho người đọc Việt, chứ chưa có nhu cầu giao lưu với những nhà thơ và người đọc nước ngòai. Dĩ nhiên chúng ta cần có những sáng tác giá trị ở cả hai trường hợp để phát triển thơ Việt, vì tùy theo thiên hướng của mỗi nhà thơ. Đối với trường hợp thứ hai, chắc phải chờ cho tới khi tác động toàn cầu hóa làm thay đổi những cảm quan văn hóa, lúc đó, chúng ta mới có nhu cầu chuyển đổi, và như thế, có thể cần tới chiều dài một thế hệ nữa không chừng.

Nhưng ngay lúc này, chúng ta cũng nên sửa soạn sẵn những bước đi tiếp nối cho những thế hệ sau. Ở đây tôi xin nói thêm vài kinh nghiệm về dịch thuật và xuất bản thơ song ngữ Anh Việt. Sống trong một thời đại đa văn hóa, hàng ngày phải tiếp xúc với nhiều sắc dân, tôi tự hỏi, phải chăng thơ có khả năng và tiềm năng tạo sự thông cảm giữa nhiều chủng tộc? Và điều đó đã thúc đẩy tôi làm cuộc trắc nghiệm, đưa thơ Việt đến với những người đọc mới. Nhưng thơ dịch, từ ngôn ngữ này qua ngôn ngữ khác ở bất cứ nền văn hóa nào đã thất bại, chỉ được coi như một tài liệu tham khảo. Để khắc phục, theo tôi, dịch là chuyển phong cách, nhạc tính và văn hóa một bài thơ từ ngôn ngữ này đến một ngôn ngữ khác. Và như thế thơ phải thay đổi cách sáng tác làm sao để công việc chuyển dịch dễ dàng, giữ nguyên vẹn được nhạc tính của thơ.

Đến đây, trong chúng ta chắc ai cũng biết, những tiểu thuyết nổi tiếng ngoại quốc khi dịch ra tiếng Việt đã được đón nhận nồng nhiệt của nhiều tầng lớp người đọc Việt bình thường. Sở dĩ như vậy, vì người dịch là những nhà văn Việt Nam, họ nắm được cái hồn của ngôn ngữ Việt, nên khi làm công việc chuyển dịch, tác phẩm có được văn phong tự nhiên của văn chương Việt. Theo Marilyn Gaddis Rose, “ngôn ngữ được dịch ra thông thường là ngôn ngữ bản địa của người dịch.” Có nghĩa là, nếu dịch thơ từ tiếng Việt sang tiếng Anh, cần người dịch là một nhà thơ Anh hay Mỹ. Bởi vì văn chương cần ngôn ngữ tự nhiên của tiếng mẹ đẻ để có thể chuyển được cái sâu thẳm của tâm hồn con người và âm thanh tinh tế của ngôn ngữ. Trong điều kiện khó tìm được một dịch giả Mỹ am hiểu rành rẽ tiếng Việt để dịch thơ Việt qua tiếng Anh, chúng ta cần chọn những dịch giả Việt sinh ở Mỹ hoặc tới Mỹ từ khoảng 10 tuổi trở lại, mà tiếng Anh của họ còn tự nhiên và gần gũi với tiếng Anh người bản địa. Hy vọng rằng thế hệ thứ hai và thứ ba của người Việt hải ngọai sẽ là nơi cung cấp những dịch giả cho văn học Việt và thơ Việt.

Thơ song ngữ tân hình thức Việt có mục đích đưa thơ tới những người đọc bao gồm những nhà thơ, những sinh viên ban văn học và những người đọc Mỹ bình thường, vì nếu chỉ dịch ra để giới thiệu với những nhà nghiên cứu văn học thì đó là những tài liệu chứ chưa thể gọi là tác phẩm, và như thế không có giá trị giao lưu văn học. Theo đúng tiêu chuẩn sáng tác và dịch thuật như vậy, từ năm 2006, chúng tôi đã xuất bản được 3 tập thơ song ngữ gồm 2 tuyển tập và một tập thơ cá nhân. Chúng tôi đang tiến hành thêm 3 tập thơ cá nhân và một tuyển tập song ngữ nữa. Những tác phẩm xuất bản chúng tôi gửi tới những thư viện Mỹ, những cơ sở và tạp chí thơ Mỹ và tới những bạn thơ và sinh viên ban văn học Mỹ. Chúng tôi cũng xuất bản theo dạng điện tử, kindle, qua hệ thống sách Mỹ www.amazon.com.

Sau này, tôi nhận ra, thơ tự do cũng cần thay đổi cách sáng tác nếu muốn chuyển dịch. Lý do là, thơ tự do Mỹ, thay thế thể thơ bằng cấu trúc thơ (hoặc hình thức trên trang giấy), và thay cái hay qua nhạc tính bằng cái hay trong phân tích để tìm ra ý nghĩa thơ. Nhưng phân tích không phải là đặc tính của thơ Việt. Vì vậy, thơ tự do Việt cần tạo ra một cấu trúc mới và ý tưởng liên lạc để người đọc có thể hiểu, trước khi cảm nhận được thơ.

Thơ Mỹ, sau hai phong trào tiền phong Thơ ngôn ngữ và Thơ tân hình thức ở những thập niên 80, 90 cuối thế kỷ 20, không còn bất cứ một phong trào tiền phong nào nữa. Thơ trở nên bão hòa với thơ thể luật (có vần và không vần) và thơ tự do. Với những nhà thơ tự do, họ thực hành qua những phong cách đã được khai phá từ những nhà thơ hiện đại, và những phong trào tiền phong nửa sau thế kỷ 20. Thơ không có những phong cách mới. Những gì khai thác đã khai thác hết, và những nhà thơ đi lại từ đầu. Thơ trải rộng, qui tụ từng nhóm nhỏ, sinh họat qua nhiều hình thức, đặc biệt là trên những diễn đàn thơ. Tuy không còn những phong trào tiền phong, nhưng nhiệt tình về thơ vẫn sôi sục không kém, số lượng người làm thơ nhiều hơn, những sáng tác của từng nhà thơ cũng nhiều hơn, nhờ những chia sẻ và góp ý nhanh chóng qua phương tiện Internet. Vấn đề là, không còn những tên tuổi nổi bật như thời hiện đại và hậu hiện đại, những nhà thơ William Carlos Williams, Allen Ginsberg chẳng hạn… thơ được định giá thường qua những giải thưởng thơ. Nhưng giải thưởng chỉ có giá trị tương đối, vì không thiếu những nhà thơ hay, không dự tranh. Khi không còn những xáo động bên ngoài, thiếu vắng phê bình và tranh luận, những nhà thơ để tâm tới thực hành và thơ trở thành một nhu cầu và là nơi trú ẩn cho mỗi con người trước một thế giới đầy biến động và bạo động.

Tôi cho rằng, thơ có vô số khả thể, và tự nó, đang có những thay đổi diện mạo, khác với thời hiện đại và hậu hiện đại, trở thành nhân tố tạo sự hiểu biết lẫn nhau giữa những chủng tộc, những sắc dân. Một lần nữa, thơ xoay mặt ra với thế giới bên ngoài, đóng vai trò nối kết giữa nội tâm và ngoại giới, giữa con người và con người, như nhà thơ Frederick Turner, qua Thơ Khác, ghi nhận, “Có lẽ ý tưởng xưa về nền “cộng hòa văn chương” có thể nổi lên lần nữa trong thời đại nơi tất cả đều nhận ra tính nhân bản chung của chúng ta và tìm kiếm cho văn học nghệ thuật một nền tảng đúng hơn, vì sự đồng cảm hơn là hệ tư tưởng.” Thuật ngữ “nền cộng hòa văn chương” thường dùng chỉ những cộng đồng trí thức cuối thế kỷ 17 và thế kỷ 18 ở Âu châu và Mỹ. Họ luân lưu những lá thư viết tay, trao đổi những bản văn hoặc những tập sách mỏng đã xuất bản, mở rộng sự nối kết, trải dài qua những biên giới quốc gia nhưng vẫn tôn trọng sự khác biệt ngôn ngữ và văn hóa.

Tôi hy vọng thơ Việt sẽ tiếp tục có những tập thơ được chuyển dịch và đón nhận từ người đọc ở bất cứ một ngôn ngữ nào khác, chỉ với những điều kiện căn bản như chúng tôi đã nêu trên, theo cách “làm sao thơ được chuyển dịch từ ngôn ngữ này qua một ngôn ngữ khác và người đọc khác chủng tộc và văn hóa vẫn tiếp nhận và cảm nhận như một lọai thơ sáng tác”. Như vậy theo tôi, toàn cầu hóa là một cơ hội tốt cho thơ Việt vươn vai, lớn dậy, ra ngoài biên giới một quốc gia, đến với một thế giới rộn lớn hơn. Thơ, nói cho cùng, luôn luôn đứng ở vị thế khiêm tốn là đời sống, lặng lẽ, không ồn ào nhưng đầy bản lĩnh, là một phương tiện ngắn gọn, cô đọng, mũi nhọn của mọi nền văn hóa.

Có điều, “đem chuông đi đánh xứ người” không phải dễ. Chúng ta cần những tác phẩm có chất lượng cao, về tư tưởng và nghệ thuật thơ. Vì vậy, chúng tôi mong rằng các bạn trẻ sẽ tham gia tích cực vào công việc sáng tác thơ tân hình thức Việt, vì càng có nhiều sáng tác mới, khả năng tuyển chọn được những bài thơ hay càng cao. Trong thời đại Internet, những thay đổi nhanh đến chóng mặt, trong khi sáng tác thơ đòi hỏi thời gian trầm tư, tùy thuộc vào tài năng và sự kiên nhẫn, nên chúng ta cần bắt đầu ngay từ bây giờ để bất cứ khi nào cũng có sẵn những tác phẩm cho việc dịch thuật và xuất bản. Trước mắt, chúng tôi đang chuẩn bị cho một tuyển tập song ngữ thơ tân hình thức, rất mong sự hưởng ứng của những nhà thơ trẻ.

Ngô Hương Giang
Các bài khác: