Friday, November 29, 2013

3 sai lầm cần tránh khi tiếp thị trên mạng xã hội

Có thể chính bạn không biết công việc tiếp thị truyền thông xã hội mình đang thực hiện có thu hút được mọi người đến với doanh nghiệp của bạn không hay ngược lại, họ thấy chán ngán và bỏ đi.

Nếu cứ đăng tải trên Twitter, Facebook hay Pinterest những nội dung đặc sệt quảng cáo, tự đề cao bản thân hay mang tính thương mại quá mức thì đúng là bạn đang khiến những người theo dõi không sớm thì muộn cũng sẽ từ bỏ. Sau đây là những sai sót thường gặp nhất trên truyền thông xã hội mà bạn nên tránh.

1.Chỉ mải mê nói về sản phẩm hoặc dịch vụ

Đây là một trong những sai lầm căn bản nhất mà bất cứ nhà tiếp thị nào, dù chuyên nghiệp hay mới vào nghề, cũng không được phép mắc phải. Đừng bao giờ trở thành một kẻ huyên thuyên về bản thân mình giữa một buổi tiệc. Nếu cập nhật những nội dung trên Facebook, Twitter hay tag hình ảnh trên Pinterest mà chỉ nói về thương hiệu của bạn thì chẳng khác gì sự tự sát trên diễn đàn truyền thông xã hội.

Một trong những nguyên tắc cần tuân theo chính là quy luật 80-20, cụ thể là 80% nội dung đăng tải nên hướng đến giải quyết những vấn đề của khách hàng và chỉ có 20% là dành cho hình ảnh về công ty bạn và những sản phẩm bạn đang kinh doanh.

2. Không chia sẻ với người khác

Thay vì cứ lặp lại những dòng thông điệp quảng cáo về sản phẩm hay dịch vụ, hãy nỗ lực chia sẻ, đăng tải, hoặc tag nội dung của những người theo dõi một cách thường xuyên hơn. Cũng nên trao đổi với người theo dõi bằng những cuộc đối thoại ngắn và thân thiện, nhất là với những cá nhân có tầm ảnh hưởng chính trong lĩnh vực kinh doanh của bạn.

Không chỉ khuyến khích tinh thần cộng đồng trong mạng xã hội của bạn, việc chia sẻ ấy còn góp phần đẩy cao tầm với của thương hiệu và giúp bạn có thêm sự tin tưởng ở người theo dõi.

Mặt khác, bạn còn có thể chia sẻ những hình ảnh và nội dung có chủ đề liên quan đến ngành kinh doanh của bạn thường được nhóm khách hàng mục tiêu quan tâm. Chẳng hạn, nếu bạn kinh doanh đồ chơi dành cho trẻ em, hãy nghĩ đến việc chia sẻ những bài đăng tải của chính người theo dõi nếu nó có giá trị đối với các bậc phụ huynh.

Trên trang Facebook của mình, Công ty Melissa & Dough (chuyên sản xuất đồ chơi) thường đính kèm các ý tưởng về nghệ thuật thủ công tự làm trong gia đình được đăng tải bởi các fan, hoặc chia sẻ những chủ đề tổ chức tiệc cho trẻ em và những trang hình ảnh đầy màu sắc có thể in ra được.

3. Đăng tải những nội dung liên quan đến chủ đề nhạy cảm

Một trong những cách nhanh nhất khiến mọi người suy nghĩ tiêu cực về thương hiệu của bạn trên mạng xã hội chính là đăng tải những dòng tiêu đề có nội dung phản cảm, trong thời điểm không đúng lúc về những chủ đề nhạy cảm, đặc biệt nếu nó liên quan đến chính trị hay khơi dậy những cảm xúc mạnh.

Mới đây, nhà thiết kế thời trang người Mỹ Kenneth Cole đã mắc sai lầm lớn khi đưa ra quan điểm đả kích việc Tổng thống Barack Obama và Ngoại trưởng John Kerry ủng hộ việc can thiệp vào Syria. Ngay lập tức, rất nhiều người đã vào trang xã hội của ông Cole, đưa ra những ý kiến trái ngược và vô tình gây ra một cuộc tranh luận om sòm không cần thiết.

Theo Doanh Nhân Sài Gòn

Monday, November 25, 2013

5 cách hiệu quả nhất để quảng cáo miễn phí website của bạn

Quảng cáo website của bạn miễn phí? Điều này nghe có vẻ vô lý. Vì chẳng quảng cáo nào miễn phí đúng nghĩa cả.
Nếu bạn không muốn bỏ tiền ra thuê quảng cáo. Mà bạn sử dụng thời gian để tự làm quảng cáo. Vậy thì làm sao để sử dụng thời gian, nhằm đạt mục tiêu quảng cáo website. Sau đây chúng tôi xin giới thiệu những cách bạn nên áp dụng để đạt được mục tiêu quảng bá website, tăng lượt truy cập vào website.



1. Tối ưu hóa website chuẩn SEO
SEO ( Search Engine Optimization) tối ưu hóa website cho bộ máy tìm kiếm. Đây là cách tốt nhất cho việc quảng cáo website. Bởi vì cách này dễ dàng học hỏi và áp dụng trên website. Bạn chỉ cần chịu học hỏi về cách làm chuẩn SEO website. Sau đó tự áp dụng vào website. Kết quả là website của bạn có thứ hạng cao trên bộ máy tìm kiếm.

2. Trao đổi links
Bạn hãy trao đổi links website của bạn với các website đối tác. Điều này nhằm giúp website của bạn có thêm một lượng backlinks ổn định. Nó cũng là cách giúp bạn quảng cáo website của bạn thông qua các website khác. Trong cách trao đổi links bạn chú ý không được tạo thành links hai chiều hay links vòng. Bởi chất lượng links một chiều được đánh giá cao hơn.

3. Viết bài thật đầy đủ
Bạn hãy dành thời gian tìm hiểu về cách vấn đề khách hàng đang quan tâm và viết một bài chi tiết nhằm giải thích cho khách hàng hiểu. Những bài viết hướng dẫn sẽ là cầu nối giúp cho người đọc đến với website của bạn nhiều hơn. Bạn chỉ cần chú ý là viết những bài chủ đề mới và chủ đề đó ít người khai thác. Như vậy nội dung website của bạn phong phú hơn.

4. Sử dụng mạng xã hội
Mạng xã hội là một nơi tốt nhất giúp bạn quảng cáo website của bạn đến tất cả mọi người. Khi bạn tham gia vào mạng xã hội, hãy cố gắng kết với nhiều đối tượng bạn bè. Và sau đó hãy chia sẻ những điều thú vị để tạo ra sự gây chú ý cần thiết. Bằng cách này bạn có cơ hội chia sẻ cả website bạn đang muốn quảng cáo nữa.

5. Hãy tạo ra nội dung thật chất lượng
Nếu bạn chăm chỉ tạo ra nhiều bài viết nhằm quảng cáo sản phẩm dịch vụ của bạn. Nhưng những bài viết đó chất lượng thấp thì khách vào website sẽ cảm thấy nhàm chán. Đồng thời họ sẽ không thích thú khi chia sẻ lại bài của bạn trên các blog cá nhân, hay các website khác. Vậy nên cần đầu tư nội dung chất lượng cho website. Khi ấy những khách truy cập sẽ là người đi giúp bạn chia sẻ lại trên blog, diễn đàn hay mạng xã hội.

Theo Công Nghệ SEO

Saturday, June 8, 2013

Chiến lược Marketing

Chiến lược marketing là cách thức mà doanh nghiệp sử dụng để đạt được mục đích marketing của mình ( thị phần, thương hiệu, sản phẩm). Chiến lược marketing phù hợp sẽ định hướng hoạt động marketing của doanh nghiệp để đạt hiệu quả cao, cân đối sử dụng ngân sách marketing hợp lý. Ngoài ra, chiến lược marketing khôn ngoan sẽ kết hợp để đat được mục tiêu kinh doanh ngắn hạn (doanh thu-tăng trưởng...) và dài hạn (thị phần- thương hiệu...). Chiến lược marketing đồng thời là kim chỉ nam giúp bộ phận marketing xây dựng chương trình marketing cho cả một năm hay quý kinh doanh. 


Thực tế cho thấy, phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có chiến lược marketing cụ thể do nhiều nguyên nhân: thiếu nhân lực, tài chính, chưa thấy tầm quan trọng của chiến lược marketing cũng như mỗi quan hệ giữa chiến lược kinh doanh và chiến lược marketing.

Do đó hoạt động marketing  (quảng cáo, khuyến mại, thương hiệu...) thường diễn ra mang tính thời vụ " ngẫu hứng",  "phát một", chưa định hình, bản sắc và có tầm nhìn và kế hoạch hoạt động dài hạn.

Ví dụ: doanh nghiệp thường triển khai các chương trình marketing: quảng cáo, khuyến mại, tiếp thị... để đạt mục tiêu gắn hạn: bàn hàng-doanh thu, thình thoảng xen kẽ một vài hoạt động thương hiệu, PR như tài trợ, ủng hộ tài chính/vật chất cho quy từ thiện, tham dự các giải thưởng trên báo chí-truyền hình...

Tuy nhiên, doanh nghiệp cần có trước tiên là một chiến lược marketing-thương hiệu để định hướng.

Sau đó dựa vào chiến lược này để lập kế hoạch và triển khai các hoạt động marketing-thương hiệu cụ thể.  Với sự tư vấn của chúng tôi doanh nghiệp của bạn sẽ xây dựng được một chiến lược marketing-thương hiệu phù hợp và hiệu quả.

Dịch vụ này gồm 3 giai đoạn chính:

Giai đoạn 1 - Phân tích & thu thập tình hình doanh nghiệp:

    Tình hình kinh doanh, phát triển của doanh nghiệp
    Trình độ tổ chức-  năng lực nhân sự
    Các hoạt động marketing và PR đã làm
    Dự định và mục tiêu phát triển trong tương lai
    Mục tiên kinh doanh của doanh nghiệp...

Giai đoạn 2 - Phân tích các yêu tố bên ngoài
    Đối thủ cạnh tranh
    Khách hàng
    Các yếu tố kinh tế-Xã hội có liên quan
    Xu hướng tiêu dùng, phát triển của công nghệ...
    ...

Giai đoạn 3 - Xây dựng chiến lược:
Trong giai đoạn này, chiến lược sẽ được xây dựng, sau đó chúng tôi sẽ bàn bạc và trao đổi với các cấp quản lý của doanh nghiệp để lập nên một chiến lược phù hợp nhất với doanh nghiệp. 

Nguồn: Marketing-branding

Friday, June 7, 2013

5 Nguyên tắc marketing online

Nguyên tắc của ngõ cụt ngụ ý thiết lập một website cũng giống như xây dựng một cửa hàng trên một ngõ cụt. Nếu bạn muốn có người đến mua hàng, bạn phải cho họ thấy có một lý do để ghé thăm.

5 Nguyên tắc marketing online. Ảnh: Internet.

1. Nguyên tắc ngõ cụt

Nguyên tắc của ngõ cụt ngụ ý thiết lập một website cũng giống như xây dựng một cửa hàng trên một ngõ cụt. Nếu bạn muốn có người đến mua hàng, bạn phải cho họ thấy có một lý do để ghé thăm. Rất nhiều các website hiện nay cả ở Việt nam và trên thế giới được xây dựng theo kiểu "cứ làm đi, rồi sẽ có người đến thăm" Điều này là sai lầm, đặc biệt là kinh doanh trên mạng. Nhưng tại sao vẫn có quá nhiều người đi theo lối mòn này vậy. Đó hẳn là vì Microsoft Frontpage hứa với người ta rằng "bạn sẽ có một website trông hết sức chuyên nghiệp". Có lẽ website đẹp nhất thế giới hẳn là phí phạm trừ phi người ta ngưỡng mộ nó đến mức phải mua hàng trên đó. Đó cũng là lý do vì sao hầu hết những người thợ thủ công khéo léo nhất, một mình đều không thể trở thành triệu phú. Họ tạo ra những sản phẩm tuyệt vời nhất nhưng lại không thể marketing sản phẩm của mình.

Vậy thì trước khi xây dựng website cho doanh nghiệp, bạn đặt câu hỏi trước làm thế nào để khách hàng truy cập vào website thường xuyên. Một cách thông thường, kế hoạch marketing của bạn như sau:
- Quảng bá hai tháng qua banner để tăng nhận thức người dùng về tên tuổi.
- Đăng ký lên các search engine.
- Đăng ký liên kết vào các danh bạ.
- Thiết lập các bản tin định kỳ nhằm thiết lập quan hệ thường xuyên với khách hàng.
Rất nhiều website hiện nay rất đẹp nhưng chẳng có gì làm khách đến thăm phải ghi nhớ vào bookmark của họ cả. Nhiều website thay vì tuyên bố "hãy liên kết đến chúng tôi bởi chúng tôi đưa ra những dịch vụ hữu ích" thì lại nói "hãy liên kết với chúng tôi bởi chúng tôi rất tuyệt vời".

2. Nguyên tắc cho và bán

Một trong những thứ được coi là văn hoá của Internet là "miễn phí". Nguyên tắc cho và bán nói rằng hãy thu hút khách hàng bằng cách hãy cho họ một số thứ miễn phí và bán một số dịch vụ gia tăng. Những cửa hàng truyền thống thường có những biểu ngữ như "miễn phí cho 50 khách hàng đầu tiên" và rồi họ bán một số sản phẩm khác.

3. Nguyên tắc của sự tin tưởng

Thông thường một sản phẩm được coi là tính cạnh tranh cao khi giá cả hợp lý và chất lượng được đảm bảo. Trên Internet, rào cản lớn nhất là sự tin tưởng. Sự tin tưởng của một thương hiệu trên các cửa hàng truyền thống được thiết lập bằng các chương trình quảng cáo trên nhiều phương tiện khác nhau. Tuy vậy, nếu bạn là doanh nghiệp vừa và nhỏ thì doanh nghiệp không thể trang trải được những chương trình như vậy. Nếu bạn là một cửa hàng truyền thống, thông qua tương tác giữa nhân viên và khách hàng, sự tin tưởng cũng có thể được thiết lập. Với một website thương mại, bạn hãy thiết lập sự tin tưởng bằng cách công bố chính sách rõ ràng về việc giao hàng, trả hàng và bảo hành đầy đủ. Xây dựng một website có navigation hợp lý, bảo mật được công nhận.

4. Nguyên tắc của kéo và đẩy

Nguyên tắc này cho biết bạn hãy kéo mọi người đến website của bạn bằng một nội dung hấp dẫn và hãy đẩy những thông tin có chất lượng cao đến họ một cách thường xuyên qua e-mail. Mọi hình thức kinh doanh đều không thể tồn tại với chỉ bán hàng có một lần. Chi phí để có được một khách hàng là rất cao nếu chỉ bán hàng cho họ có một lần. Đây là lí do mà nguyên tắc kéo và đẩy là hết sức quan trọng. Khi thu thập và gửi e-mail cho khách hàng, hãy nhớ kỹ hai điều : một là bạn sẽ gửi cho họ một điều gì đáng giá, hai là bạn hãy giữ bí mật về e-mail của khách hàng.

5. Nguyên tắc của thị trường mục tiêu

Những hãng lớn như Amazon, Wal-Mart có khả năng phát triển những mảng thị trường lớn bởi họ có tiềm lực mạnh về tài chính. Những doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thương mại điện tử thành công bởi tìm kiếm được những mảnh thị trường nhỏ chưa được thoả mãn và đáp ứng xuất sắc được những nhu cầu đó.

Tất cả những nguyên tắc trên đều hết sức quan trọng, không có nguyên tắc nào quan trọng hơn nguyên tắc nào. Nếu bạn biết cách kết hợp được những nguyên tắc trên thì bạn sẽ thành công trong kinh doanh mạng.

Nguồn Inet

Tuesday, June 4, 2013

Làm thế nào để mua nhà khi mức lương 3-4 triệu?

Ảnh minh họa - Thu nhap thap va chung cuTiếp thị bất động sảnLiệu rằng người thu nhập thấp với mức lương trung bình 3-4 triệu đồng/tháng thì có đủ khả năng mua nhà và để an cư không?

Trả lời câu hỏi nói trên, VEF.vn đăng phản hồi của độc giả Mai Sỹ Xuân Lâm về nỗi băn khoăn của cá nhân anh cũng như hàng triệu công nhân viên chức, những người làm công ăn lương mà thu nhập vẻn vẹn vài ba triệu đồng/tháng. Từ đó, tác giả đã đưa ra giải pháp cho vấn đề này. Dưới đây là nội dung bài viết (tít phụ do nguoiduatin đặt).

Cần quy hoạch lại đối tượng cho vay

Hiện đang tồn tại thực trạng: Có rất nhiều gia đình đông người nhưng lại không sở hữu được nhà ở. Họ phải sống trong tình cảnh thuê mướn nhà và không có sổ hộ khẩu. Đồng thời, cũng cần phải khảo sát lại vấn đề nhu cầu nhà ở của xã hội, liệu rằng người thu nhập thấp với mức lương trung bình 3-4 triệu đồng/tháng thì có đủ khả năng mua nhà và để an cư không?

Thực tế tại các khu nhà trọ cho thấy, người thu nhập thấp đang thuê những căn nhà nhỏ nhỏ - được gọi là phòng trọ - diện tích mặt sàn không vượt quá 20m2, có thêm một căn gác như vậy thì tổng diện tích cũng không quá 40m2, nhưng một căn phòng như vậy có thể ở từ 3-4 người. Trung bình là 3 người, có thể là 3 sinh viên, có thể là một gia đình nhỏ có 3 người, hoặc 3 người lao động góp tiền thuê nhà ở chung,..v.v... Giá thuê trung bình một căn như vậy - tùy theo nội thành hay ngoại thành - giá thuê từ 1,5 - 3 triệu đồng/tháng, chưa kể chi phí điện nước.

Điều này phản ánh thực trạng người thu nhập thấp không có nhu cầu phải sống trong một căn hộ quá to, có tổng diện tích sử dụng trên 60m2, với giá bán trên 10 triệu đồng/m2 như những căn hộ chung cư hay nhà xã hội hiện có.

Vậy với gói cứu trợ 30.000 tỷ đồng, Chính phủ và Nhà nước cần phải sử dụng để hỗ trợ như thế nào cho sát với thực tế của người nghèo, hay còn gọi là người có thu nhập thấp từ 2-7 triệu đồng/tháng?

Theo quy định về cách sử dụng gói cứu trợ 30.000 tỷ đồng, nhà nước sẽ hỗ trợ cho người có thu nhập thấp vay vốn mua nhà với tổng diện tích sử dụng không quá 70m2, và giá không vượt quá 15 triệu đồng/m2, như vậy tính trung bình một căn hộ với tổng diện tích sử dụng là 65m2, và giá bán là 14 triệu đồng/m2, thì giá trị căn hộ đó tương đương 910 triệu đồng/căn.

Với lãi suất vay là 6% và thời hạn vay trong vòng 10 năm, tức là người thu nhập thấp mang nợ thêm 54 triệu/năm, số nợ mỗi năm sẽ giảm dần. Như vậy trung bình người dân có thu nhập thấp phải trả nợ góp hàng tháng trên 11 triệu đồng/tháng.

Với người thu nhập thấp 3-4 triệu đồng/tháng thì gia đình đó cần phải có đến 5 người cùng sống trong một nhà mới đủ khả năng trả góp và trang trải chi phí sinh hoạt. Nhưng điều phi lý lớn nhất ở đây là chủ sở hữu đứng tên thì lại chỉ có thể là 1 người mà thôi. Nếu sau 10 năm, những người này có lập gia đình riêng hay bán nhà thì cũng sẽ khó chia tài sản cho hợp lý.

Mặt khác, với việc được vay trung bình là 1 tỷ đồng/căn hộ cho 4 người, thì gói cứu trợ 30.000 tỷ đồng cũng chỉ hỗ trợ được tối đa 30.000 căn hộ và tối đa 150.000 nhân khẩu được an cư. Đây là những con số cho thấy sự bất cập và bất hợp lý so với thực tế gọi là người có thu nhập thấp.

Vậy, để gói cứu trợ 30.000 tỷ đồng này trở nên hợp lý thì Chính phủ và nhà nước cần phải quy hoạch lại đúng đối tượng và đúng nhu cầu thực tế của người dân.

Nên cho hộ thu nhập thấp vay 300 triệu đồng

Hình minh họa - Chung cưNhư dẫn chứng bên trên, người có thu nhập thấp hiện nay phải thuê phòng trọ có tổng diện tích sử dụng không quá 40m2 nhưng họ vẫn sống được tối thiểu 3 nhân khẩu.

Với diện tích mặt sàn tầng trệt 3m x 7m = 21m2, thêm một tầng lầu với diện tích tương tự, tổng diện tích sử dụng là 42m2, và mái bằng 1/3 diện tích mặt sàn tương đương 7m2. Với giá xây dựng trung bình 4 triệu/m2, cho thấy một căn nhà gồm có tầng trệt + 1 lầu với tổng diện tích sử dụng là 42m2 có giá thành xây dựng tương đương 49 x 4 triệu = 196.000.000 đồng.! Đủ cho 3 nhân khẩu có thể sống.

Như vậy, để kích cầu thị trường bất động sản, chính phủ cần đi sát thực tế với người thu nhập thấp về nhu cầu nhà ở. Với chi phí xây dựng trung bình 200 triệu đồng cho một căn nhà có tổng diện tích sử dụng là 42m2, đáp ứng đủ cho 3 nhân khẩu, chính phủ và nhà nước cần đưa ra những chính sách quy hoạch đất sử dụng một cách hợp lý.

Ví dụ, Chính phủ sẽ quy hoạch thành lập những khu dân cư AN CƯ dành cho người thu nhập thấp, trong đó mặt bằng nhà được quy hoạch không quá 25 m2/nền nhà: 3m x 7m, hoặc 4m x 6m, hoặc 3m x 8m.

Chính phủ có thể bán đất với giá rẻ từ 1,5-4 triệu đồng/m2, tương đương từ 32-84 triệu đồng/nền nhà. Hoặc nhà nước cho thuê đất sử dụng tối đa 400.000 đồng/tháng/nền và không quá 30 năm.

Với gói cứu trợ 30.000 tỷ đồng, Chính phủ có thể chia nhỏ và cho vay tối đa 300 triệu đồng/hộ dân (tối đa 3 nhân khẩu) để xây nhà nhỏ cho người có thu nhập thấp. Như vậy với gói cứu trợ 30.000 tỷ đồng chính phủ có thể giúp cho 100.000 hộ dân, tương đương 300.000 nhân khẩu được AN CƯ và có hộ khẩu.

Với vốn vay 300 triệu đồng/hộ và lãi suất hỗ trợ 6%/năm, tổng dư nợ và lãi phải trả giảm theo hàng năm, trung bình người vay sẽ phải trả góp hàng tháng là 3,33 triệu đồng mỗi tháng trong suốt 10 năm. Như thế là phù hợp với nhu cầu thực tế của người thu nhập thấp, để giúp người thu nhập thấp có được điều kiện mua nhà để AN CƯ. Từ đó cũng sẽ giải quyết việc làm trung bình cho hàng trăm ngàn lao động, kích cầu kinh tế về vật liệu xây dựng, thép xây dựng, trang trí nội - ngoại thất và thúc đẩy vực dậy những lợi ích kinh tế phụ trợ đi kèm.

Mặt khác, hàng tháng trung bình 100.000 hộ dân này sẽ phải trả góp số tiền là 3,33 triệu/hộ, tương đương 332,5 tỷ đồng mỗi tháng có thể giải quyết tiếp cho thêm 1.108 hộ dân khác được tiếp tục vay vốn định cư.

Với số vốn 30.000 tỷ đồng ban đầu này, sau 10 năm có thể giải quyết cho trên 23.000 hộ dân nghèo thu nhập thấp được an cư!

Với mức trả góp trung bình hàng tháng tương đương 3,33 triệu đồng/căn hộ với tổng diện tích sử dụng là 42m2 như tính toán kể trên, người thu nhập thấp sẽ có được nhà chính chủ để ở, thay vì cũng với số tiền ấy họ chỉ đủ để thuê một căn nhà mà sau 10 năm sau vẫn không thể là chủ sở hữu và cũng không có sộ hộ khẩu!

Là một người thu nhập thấp trung bình 7 triệu đồng/tháng, tôi cũng rất mong được chính phủ và nhà nước hỗ trợ gói cứu trợ tối thiểu 300 triệu đồng để tôi có thể sở hữu một căn nhà 2 tầng (1 trệt + 1 lầu), với tổng diện tích sử dụng chỉ cần 42m2 là đủ cho nhu cầu của tôi. Song song đó, nếu được hỗ trợ thêm chính sách về đất nền bán hoặc cho thuê với giá rẻ thì càng tốt.

Tin bài khác:

Monday, June 3, 2013

Kinh tế Việt Nam: Nếu không thay đổi, vốn vào Việt Nam sẽ còn giảm nữa

Tài chính marketing - Tại sao ngày càng ít nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đầu tư vào Việt Nam? Chính phủ Việt Nam sẽ làm gì để cải thiện nguồn vốn này?

Những câu hỏi, sự băn khoăn của các đại biểu quốc tế nêu tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam giữa kỳ (VBF 2013) vừa tổ chức tại Hà Nội sáng 3/6. Đây là hình thức mới lần đầu tiên được tổ chức của Hội nghị Nhóm Tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam (Hội nghị CG) trước đây.

Không thay đổi sẽ còn tệ hơn

Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Australia tại Việt Nam, ông Brian O'Reilly, nêu câu hỏi: Tại sao ngày càng ít nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam? Chính phủ Việt Nam sẽ làm gì để cải thiện nguồn vốn này?

Theo ông Brian O'Reilly, các nước ASEAN khác như Indonesia, Thái Lan, Campuchia và Myanmar giờ đã nổi lên như những điểm đến đầu tư hấp dẫn. Vì vậy, ngày càng có nhiều đối thủ cạnh tranh trong khu vực. Tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu cũng có thể ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), tuy nhiên, vốn FDI toàn cầu đã tăng lên trong vài năm qua.

‘Nếu Việt Nam không tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi hơn, thì nguồn FDI có thể tiếp tục giảm’ ông Brian O'Reilly nói.

Ở góc độ trong nước, ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam nhìn nhận sự cố gắng của Chính phủ.

Cụ thể, Chính phủ nghiên cứu, tiếp thu như việc trình Quốc hội giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp, thực hiện giảm lãi suất tín dụng và bố trí 30.000 tỷ đồng hỗ trợ thị trường bất động sản; điều chỉnh mức tăng lương tối thiểu và thành lập Hội đồng tiền lương quốc gia..., song Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tiếp tục đưa ra nhiều kiến nghị cụ thể với Chính phủ.

Theo đó, cộng đồng doanh nghiệp mong muốn Chính phủ kiên định đối với các mục tiêu ưu tiên ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát và tăng trưởng ở mức hợp lý, tỉnh táo trước những sức ép về tăng trưởng nhanh trước mắt, song không bền vững.

Theo ông Lộc, những điểm yếu của nền kinh tế Việt Nam thời gian qua “chủ yếu đến từ những vấn đề nội tại”, ông Vũ Tiến Lộc đề xuất: “Chính phủ cần ưu tiên cải cách thể chế, đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế, chứ không bị cuốn vào các giải pháp ngắn hạn”. 

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh cũng khẩn thiết: ‘vẫn còn nhiều khó khăn thách thức. Đầu tư trong nước chưa cao, tồn kho cao, khả năng cạnh tranh thấp, số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động còn lớn... Các khó khăn thách thức còn ở phía trước. Chính phủ cần sự ủng hộ của doanh nghiệp trong tiến trình cải cách’.

Cần thiết lập sân chơi bình đẳng

Ông Mark Gillin- Chủ tịch Hiệp hội Thương mại Hoa Kỳ tại Việt Nam (AmCham) cũng nhấn mạnh về vai trò của doanh nghiệp tư nhân. Khuyến nghị về khối doanh nghiệp này nằm vị trí đầu tiên trong 4 bài học khuyến nghị đối với Việt Nam thể hiện tầm quan trọng của doanh nghiệp tư nhân trong bối cảnh công cuộc “Đổi mới 2” của Việt Nam.

Theo đó, Mark Gillin cho rằng, cần thiết lập một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp tư nhân này phát triển. AmCham không mong muốn doanh nghiệp tư nhân kém hơn các khối doanh nghiệp khác.

Ông Mark Gillin nhấn mạnh, đã đến lúc Việt nam phải tiến lên với những cải cách cần thiết để tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh hơn. ‘Hiện tại, còn quá nhiều cải cách cơ bản chưa được thực hiện hóa vì thế nền kinh tế đang phải gánh chịu’, ông Mark Gillin nói.

“Việt Nam cần có những hành động sau khi thảo luận quá lâu, thay đổi tích cực và cải cách sẽ mang lại niềm tin. Với vòng quay đổi mới sau đổi mới 2 sẽ mang lại cơ hội mới cho doanh nghiệp tư nhân. Đổi mới sẽ mang lại sức sống mới cho Việt Nam” - ông Mark Gillin chia sẻ.

Đại diện cho các nhà nhà đầu tư nước ngoài, ông Kim Jung In, Chủ tịch Korcham (Phòng Thương mại Hàn Quốc) cho rằng, Chính phủ cần tiếp tục xúc tiến quá trình tái cơ cấu, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) với những biện pháp quyết liệt. Đặc biệt, vì nhà đầu tư nước ngoài được phép mua cổ phần của DNNN, nên quá trình này cần phải rõ ràng, minh bạch để thúc đẩy các giao dịch mua bán, sáp nhập.

Đại diện Korcham phát biểu: “Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính cần tiến hành tái cơ cấu ngành ngân hàng theo lộ trình, để tránh việc các ngân hàng thương mại trong nước rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Tái cơ cấu DNNN và ngành ngân hàng phải được đồng thời thực hiện”.

Lắng nghe các ý kiến, Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh khẳng định, Chính phủ Việt Nam đã tiếp thu các ý kiến chính đáng, xây dựng của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, đã và đang triển khai các giải pháp tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh vượt qua khó khăn thách thức.

Trên tinh thần tiếp tục thực hiện các giải pháp đồng bộ tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, Phó Thủ tướng tin tưởng rằng, các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp sẽ được tiếp tục thực hiện có kết quả.

‘Chính phủ Việt Nam luôn lắng nghe, chia sẻ, tiếp thu các ý kiến đóng góp xác đáng của các doanh nghiệp để tiếp tục có chính sách và giải pháp phù hợp’ phó Thủ tướng nói.

Bích Ngọc - Đatviet (Tổng hợp VOV, SGTT, SGGP)

Tin bài khác:

Sunday, June 2, 2013

Kinh tế Việt Nam: Vượt qua suy thoái

Tài chính marketing - Các chỉ số kinh tế được công bố trong những tháng đầu năm 2013 cho thấy những dự báo về một năm 2013 khó khăn hơn đang dần trở nên hiện thực. Số doanh nghiệp giải thể trong ba tháng đầu năm 2013 lên đến trên 15.300 doanh nghiệp, và theo nhận định của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, con số doanh nghiệp “chết” trong thời gian qua trên thực tế có thể đến con số một trăm ngàn, trong khi có đến 69% doanh nghiệp đang hoạt động không có lãi. Doanh nghiệp phá sản kéo theo tỷ lệ thất nghiệp gia tăng.

Thống kê năm 2012 cho thấy trong chín tháng của năm 2012, tỷ lệ thất nghiệp tại khu vực đô thị là 3,3%, tại nông thôn là 1,42%, đưa con số lao động muốn làm việc nhưng không có công ăn việc làm – và không có thu nhập – lên đến trên 2 triệu người, chưa kể số lượng lao động thất nghiệp trá hình chỉ có việc làm tạm bợ và thu nhập cực kỳ thấp.

TP.HCM có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất trong khu vực đô thị (3,92%), Đồng bằng sông Cửu Long có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất trong khu vực nông thôn (4,6%). Sang năm 2013, tình trạng thất nghiệp chưa có dấu hiệu cải thiện. Thất nghiệp tăng, triển vọng kinh tếảm đạm khiến người dân phải tự thắt lưng buộc bụng, giảm chi tiêu.

Tổng cầu xã hội giảm, sức mua giảm, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) giảm rõ rệt. Trong ba tháng 3, 4, 5 của năm 2013, chỉ số giá tiêu dùng của TP. Hồ Chí Minh liên tục giảm, bình quân giảm 0,26%/tháng.

Sức mua toàn xã hội giảm, hàng hóa không tiêu thụ được khiến cho tồn kho hàng hóa các doanh nghiệp tăng lên, doanh nghiệp thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh, sa thải lao động, đưa nền kinh tế rơi vào vòng xoáy suy thoái đáng báo động.

Cho đến cuối tháng 4/2013, các doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp xây dựng, một ngành công nghiệp dẫn đầu trong tăng trưởng kinh tế, tiếp tục bị lao đao vì sản phẩm tồn đọng: giá trị tồn kho thép tại các doanh nghiệp lên đến trên 9 ngàn tỉ đồng, tồn kho gạch trên 3 ngàn tỉ đồng, tồn kho xi măng của riêng Tổng công ty Công nghiệp xi măng là 1,38 triệu tấn.

Điều may mắn là tình hình kinh tế khó khăn đang được công khai thừa nhận bởi Quốc hội, Chính phủ và được truyền thông rộng rãi, cho thấy đã có một quyết tâm chính trị cao trong nỗ lực tìm kiếm giải pháp thích hợp đưa nền kinh tế vượt qua vũng lầy suy thoái, một quyết tâm tuy khá chậm nhưng có còn hơn không. Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải trả một cái giá nhất định cho sự chậm trễ.

Những liều thuốc cần thiết, lẽ ra đã có thể hiệu nghiệm nếu được sử dụng sớm, thì nay đã không còn tác dụng như mong đợi. Chẳng hạn, biện pháp giảm lãi suất để hỗ trợ nguồn tín dụng giá thấp cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp – nhất là các doanh nghiệp tư doanh – nếu được triển khai ngay từ năm 2010 theo gương của Ngân hàng Trung ương các nước trong khu vực và các nước công nghiệp phát triển trong sách lược đối phó với khủng hoảng kinh tế, đã có thể ngăn chặn được sự đổ vỡ hàng loạt doanh nghiệp trong khu vực tư và đã không đưa nền kinh tế lún sâu vào suy thoái kéo dài.

Hiện nay, biện pháp giảm lãi suất và cởi mở tín dụng đã không còn tác dụng nhiều nữa trong việc hỗ trợ doanh nghiệp và kích cầu tiêu dùng, khi quá nhiều doanh nghiệp đã phá sản hoặc đang hấp hối và số lao động mất việc gia tăng.

Trong năm tháng đầu năm 2013, tín dụng trong hệ thống ngân hàng chỉ tăng hơn 2%, cho thấy chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng do Ngân hàng Nhà nước đề ra trong năm 2013 là 12% là rất khó đạt được.

Không phải doanh nghiệp của chúng ta không cần vốn, nhưng họ đang trong tình trạng không còn khả năng hấp thu đồng vốn, giống như một bệnh nhân đường ruột.

Nợ xấu doanh nghiệp tăng cao đặt họ vào hoàn cảnh pháp lý không thể tiếp cận nguồn vốn mà họ cần để qua cơn hoạn nạn, mặt khác họ cũng không đủ sức thuyết phục các ngân hàng tin rằng sẽ có thể cùng họ vượt qua vực thẳm mà không bị kéo xuống theo.

Đối với những doanh nghiệp còn hoạt động, xu hướng “co cụm” hoạt động sản xuất kinh doanh để giữ an toàn trở thành chiến lược phòng thân khôn ngoan trong thời điểm khó khăn, khiến cho nhu cầu vay vốn ngân hàng giảm hẳn.

Bên cạnh đó, tuy lãi suất huy động đang giảm dần, lượng tiền gởi tiết kiệm của khu vực hộ gia đình vẫn tiếp tục gia tăng cho thấy tâm lý tiết kiệm phòng xa đang tăng lên trong đại bộ phận người tiêu dùng.

Toàn xã hội đang bị tác động bởi kỳ vọng suy thoái, một kỳ vọng sẽảnh hưởng tiêu cực đến các biện pháp kinh tế vĩ mô được đề ra nhằm phục hồi tăng trưởng.

Thêm vào đó, nỗi e sợ thâm căn cố đế về bóng ma lạm phát vẫn còn vương vấn trong đầu những nhà lãnh đạo tiền tệ, càng khiến cho các biện pháp tiền tệ vốn dĩ rất dè dặt và thận trọng sẽ dễ dàng trở thành nửa vời và không phát huy tác dụng, nhất là đối với những biện pháp có thể dẫn đến việc làm tăng cung tiền, như mua lại các tài sản thế chấp của các khoản nợ xấu tại các ngân hàng thương mại, thúc đẩy tăng trưởng nguồn cung tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại qua việc Ngân hàng Nhà nước tái chiết khấu, cho vay lại…, dù rằng đó là những biện pháp hết sức cần thiết.

Cần vượt qua tâm thế này để xây dựng một chính sách tiền tệ năng động hơn, tích cực hơn qua việc giảm sâu hơn lãi suất cơ bản, mở ra các chương trình tài trợ xuất khẩu, tài trợ công nghiệp then chốt, tài trợ nông ngư nghiệp với lãi suất ưu đãi.

Cấu trúc lại các khoản nợ của doanh nghiệp, giãn nợ, hoãn nợ, giảm lãi… cho những doanh nghiệp còn có thể tiếp tục hoạt động, xử lý các doanh nghiệp vô phương cứu chữa… là những biện pháp cần làm ngay để mở ra con đường sáng sủa, lành mạnh hơn.

Cần thấy rằng, chỉ tiêu kế hoạch tăng khối tiền tệ trong năm 2013 là 14% đến 16% so 2012 không phải là lớn và sẽ không tạo áp lực lạm phát, vì trong điều kiện kinh tế suy thoái, vòng quay thu nhập của tiền tệ chắc chắn giảm đáng kể, thể hiện qua các tín hiệu rõ rệt như sức mua giảm, tồn kho hàng hóa tăng, khiến cho cung tiền dù có tăng, tăng trưởng vẫn thấp và chỉ số giá tiêu dùng sẽ tăng không đáng kể trong năm 2013. 

Tuy nhiên, chỉ riêng các biện pháp tiền tệ không thể tạo được tác động đòn bẩy mạnh mẽ cho sự phục hồi nền kinh tế, cần phải có sự hợp đồng với chính sách thuế và tài khóa mới có thể hoàn thành trọng trách này.

Trong những ngày gần đây, giải pháp giảm thuế để vực dậy doanh nghiệp đang được nhiều đại biểu Quốc hội đề nghị. Nhưng trong điều kiện suy thoái kéo dài, giảm thuế chỉ có tác dụng như một liều thuốc bổ, không phải là liều thuốc trị.

Khi có đến 69% số doanh nghiệp hoạt động không có lãi và phần lớn doanh nghiệp thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh, việc giảm tỷ suất thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế giá trị gia tăng mang tính chất an ủi nhiều hơn là khuyến khích, chưa thể tạo ra động lực.

Hiển nhiên là trong lâu dài, một chính sách thuế khoan dưỡng sức dân cùng với việc giảm chi phí vay ngân hàng qua việc giảm lãi suất tín dụng sẽ giúp rất nhiều cho doanh nghiệp Việt Nam giảm chi phí tài chính, giảm giá thành và củng cố năng lực cạnh tranh của họ trên thị trường nội địa cũng như quốc tế. Nhưng trong tình hình suy thoái kinh tế hiện nay, cần có những giải pháp mạnh mẽ hơn, với những liều thuốc có liều lượng cao hơn.

Chẳng hạn, cần phải chấp nhận một mức thâm hụt ngân sách lớn hơn trong năm 2013 so với mức kế hoạch hiện nay là 4,8% GDP để thực hiện kích thích tài khóa (Fiscal Stimulus) qua việc tăng đầu tư công, hoàn tất những dự án đầu tư hạ tầng còn dang dở vì thiếu kinh phí.

Đầu tư công, tốt nhất là cho các dự án phát triển hạ tầng, vào thời điểm hiện nay sẽ có tác dụng như một đầu tàu lôi kéo sự hồi phục của các ngành kinh tế khác. Đây là giải pháp cấp bách cần thiết của năm 2013 và có thể cả năm 2014 nhằm vượt qua suy thoái.

Tại hội thảo “Lạm phát và tăng trưởng kinh tếở Việt Nam” do Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức ngày 21/5, lần đầu tiên một báo cáo nghiên cứu của Học viện Chính sách và Phát triển đã thừa nhận rằng muốn tăng trưởng cao, phải chấp nhận lạm phát ở mức nhất định, chứ không thể tăng trưởng cao, lạm phát thấp như mong muốn khó đạt của những người hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô nước ta từ trước đến nay.

Vấn đề thiết yếu của nền kinh tế Việt Nam hiện nay không chỉ là sự chọn lựa giữa lạm phát và tăng trưởng mà là sự chọn lựa còn thiết thân hơn, sống còn hơn, giữa một bên là sự bảo vệ duy ý chí những chỉ số thống kê kế hoạch vô cảm như chỉ số giá tiêu dùng CPI và một bên là công ăn việc làm, là cuộc sống của người lao động từ thành thị đến nông thôn, là sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, trụ cột của nền kinh tế đất nước.

Ưu tiên ở đâu đã thấy rõ. Sự chọn lựa nào sẽ đạt được đồng thuận xã hội cao cũng đã thấy rõ. Trên hết, phải có một quyết tâm chính trị mạnh mẽ, một tinh thần trách nhiệm cao để thực hiện những hành động cần thiết vì lợi ích toàn cục của nền kinh tế quốc dân, của cộng đồng dân tộc.


Tin bài khác:

Thursday, May 30, 2013

Kinh tế Việt Nam: “Điều hành kinh tế như đang trên dây”

Ông Phùng Quốc Hiển, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hộiTài chính marketing - “Nền kinh tế đang rất khó khăn nên việc điều hành kinh tế lúc này như đang “trên dây”, làm sao phải giữ được sự thăng bằng giữa tăng trưởng và lạm phát thì mới có thể đi hết chặng đường năm 2013”, ông Phùng Quốc Hiển, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội, nêu quan điểm.

Thảo luận về tình hình kinh tế - xã hội, nhiều đại biểu đều thể hiện sự “sốt ruột” về sự trì trệ của nền kinh tế và theo họ, đã đến lúc không cần phải quá lo cho lạm phát để tập trung cho tăng trưởng. Xin cho biết quan điểm của ông?

Tôi cho rằng lúc này chúng ta đừng nghiêng về một phía nào cả.

Nền kinh tế đang rất khó khăn, nên việc điều hành kinh tế lúc này như đang “trên dây”, làm sao phải giữ được sự thăng bằng giữa tăng trưởng và lạm phát thì mới có thể đi hết chặng đường năm 2013. 

Nếu chúng ta sốt ruột nên nghiêng về tăng trưởng kinh tế mà không quan tâm đúng mức đến lạm phát hoặc ngược lại, chỉ tập trung vào kiềm chế lạm phát mà không nghĩ đến tăng trưởng kinh tế thì đều không ổn. Quan trọng là phải giữ được cân bằng.

Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta phải chấp nhận một mức lạm phát có thể tương đương như năm 2012 để có thể đạt được mức tăng trưởng kinh tế cao hơn năm 2012.

" Cần phải đặt mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô lên hàng đầu, phải chặn lại tốc độ lạm phát. Tuy nhiên, đây là câu chuyện phải làm từ từ, chứ cũng không nên quá đột ngột như thời gian qua." - Phùng Quốc Hiển

Tôi cho rằng trong điều kiện hiện nay, chúng ta khó có thể kỳ vọng đạt được mục tiêu Quốc hội đã thông qua là GDP tăng 5,5%, một mức khả thi có thể đạt được là tăng khoảng 5,2%.

Đại biểu Quốc hội cũng còn cho rằng việc điều hành lạm phát như năm 2012 và 5 tháng đầu năm nay không còn là thành tích vì thực chất, chỉ vì người dân quá thắt lưng buộc bụng nên CPI không thể nhích lên?

Vấn đề này cũng nên được xem xét một cách công bằng hơn, nếu nói hoàn toàn lạm phát thời gian qua không có công sức điều hành của Chính phủ thì cũng không hẳn, nhưng cũng không hoàn toàn do điều hành tốt nên lạm phát giảm. 

Những tháng gần đây, CPI của cả nước cũng như tại những thành phố lớn đều có xu hướng giảm. Trong trường hợp này, CPI giảm một mặt phản ánh rằng chúng ta đã kiềm chế tốt lạm phát, nhưng mặt khác cũng cho thấy sự suy giảm về sức mua của nền kinh tế.

Về mục tiêu kiềm chế lạm phát của năm ngoái và năm nay, Quốc hội đặt ra mục tiêu lạm phát dưới một con số trên cơ sở phân tích rằng, nền kinh tế của nước ta do lạm phát luôn ở mức cao, có nhiều bong bóng trong các lĩnh vực như tài chính, chứng khoán, bất động sản... làm kinh tế vĩ mô bất ổn. 

Vì vậy, cần phải đặt mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô lên hàng đầu, phải chặn lại tốc độ lạm phát. Tuy nhiên, đây là câu chuyện phải làm từ từ, chứ cũng không nên quá đột ngột như thời gian qua. Năm 2012, CPI chỉ tăng 6,81%, thấp hơn nhiều so với mức tăng 18,13% của năm 2011. Nền kinh tế đang lạm phát cao mà chặn lại xuống còn 6,81% cũng không phải là một sự thành công.

Chính phủ hiện cũng đang tỏ ra hết sức nỗ lực và tích cực để thúc đẩy tăng trưởng, thông qua việc đưa ra hàng loạt các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, nhưng gần như giải pháp nào, cũng đều bị “chê”. Vậy theo ông, việc cứu doanh nghiệp cần làm thế nào cho thực sự hiệu quả?

Theo tôi, muốn các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp thực sự hiệu quả, thì phải hiểu đúng được đâu là thứ doanh nghiệp cần. Hiện, có ba thứ doanh nghiệp đang rất cần. Đó là vốn - được coi như “máu” của doanh nghiệp. Nguồn vốn của doanh nghiệp hiện nay chủ yếu dựa vào tín dụng của ngân hàng, Nhưng nguồn vốn tín dụng đang bị một điểm nghẽn là nợ xấu, được ví như cục máu đông. 

Vậy thì Chính phủ phải làm sao định hướng ngân hàng “giải phẫu” cục máu đông này: có phân loại, có những khoản phải khoanh nợ, giãn nợ, thậm chí có những khoản phải chấp nhận gạt sang một bên để tiếp tục cho doanh nghiệp có khả năng phát triển vay vốn. 

Ngân hàng cần đặt mục tiêu: cứu doanh nghiệp cũng như cứu mình thì mới giải quyết được tình trạng này, chứ không như vừa qua, nhiều ngân hàng chỉ tập trung thu nợ mà không tính toán đầy đủ đến chuyện phải để vốn để doanh nghiệp sống.

Cùng đó, chúng ta cũng cần phân tích rõ, nợ xấu hình thành từ đâu? Rõ ràng, nợ xấu có sự góp phần từ đầu tư cho bất động sản, từ nợ xây dựng cơ bản. Đây là một cái nút cần tháo gỡ.

"Nhiều doanh nghiệp nói rằng không cần Nhà nước hỗ trợ gì cả nhưng Nhà nước phải minh bạch về cơ chế, chính sách, phải đảm bảo chính sách, hàng rào kỹ thuật ổn định." - Ông Phùng Quốc Hiển

Vừa qua, chính sách của chúng ta đã và đang tập trung hỗ trợ cho bất động sản có thể bán được – cũng là cách để xử lý nợ xấu. Ngoài ra, cần tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể tạo vốn. Các chính sách về giảm thuế vừa qua chính là hình thức để tạo vốn cho doanh nghiệp.

Cái cần thứ hai là về thị trường. Thị trường cũng là một trong những điều kiện đảm bảo sự sống còn của doanh nghiệp. 

Chính phủ phải làm thế nào để thúc đẩy được sức mua, nếu cứ bỏ mặc cho việc hàng hóa doanh nghiệp làm ra để bán trên thị trường mà thị trường bị chậm, sức mua giảm và chỉ coi đó như là việc của doanh nghiệp thì rất khó cải thiện tình hình. Phải có bàn tay của Nhà nước để kích hoạt tất cả các thị trường thông qua các chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa. 

Chẳng hạn, Chính phủ có các động thái kích hoạt cho thị trường bất động sản là rất nên làm. Hay kích hoạt thị trường bằng cách thực hiện tuyên truyền, vận động mạnh mẽ hơn để người Việt Nam dùng hàng Việt Nam...

Cái cần thứ ba của doanh nghiệp là các cơ quan nhà nước cần bảo đảm một khuôn khổ pháp lý ổn định. Nhiều doanh nghiệp nói rằng không cần Nhà nước hỗ trợ gì cả nhưng Nhà nước phải minh bạch về cơ chế, chính sách, phải đảm bảo chính sách, hàng rào kỹ thuật ổn định. Nếu không ổn định thì doanh nghiệp cũng không thể nào tính toán hiệu quả đầu tư, sản xuất kinh doanh.

Tin bài khác:

Wednesday, May 29, 2013

Việt Nam: Cảnh báo từ nền kinh tế nguội lạnh

Ông Trần Đình ThiênTài chính marketing - "Trong khi chưa giải tỏa được những "cục máu đông" nợ xấu, tồn kho đang chặn dòng lưu thông kinh tế thì lại có ý kiến cho rằng cần phải tính đến tình trạng "tồn kho chính sách, tồn kho thể chế lạc hậu", hiểu rộng ra - "tồn kho" cả một mô hình tăng trưởng đã lỗi thời. Mà đây chính là những nguy cơ đe dọa lâu dài sự ổn định vĩ mô", ông Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam nói.

LTS: Ngày mai (30/5), các ĐBQH sẽ thảo luận tại Hội trường trong phiên họp được truyền hình trực tiếp để bàn các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế. Tuần Việt Nam xin giới thiệu một số góc nhìn của các chuyên gia kinh tế.

Tồn kho chính sách và thể chế

Trên diễn đàn QH vừa qua, nhiều ý kiến đánh giá rằng nền kinh tế hiện đang hết sức khó khăn, thậm chí nhiều người cho rằng gay go lắm rồi? Theo ông, tình hình kinh tế năm 2013 đáng quan ngại đến mức nào?

Ông Trần Đình Thiên: - Tính đến nay đã gần hết quý 2/2013. Vẫn có nhiều dấu hiệu rõ ràng cho thấy rằng tình hình kinh tế sẽ vẫn còn tiếp tục gặp nhiều khó khăn trở ngại trong giai đoạn tới.

Về phương diện tăng trưởng GDP, dễ nhận thấy rằng cả 3 "trụ cột" - tín dụng, ngân sách và lực lượng DN - đều đang rất yếu. Tốc độ tăng trưởng tín dụng quá thấp, thực lực ngân sách - yếu tố quan trọng nhất để kích thích tăng trưởng trở lại khi nền kinh tế gặp khó khăn nay cũng rất yếu. Lực lượng DN bị tổn thất quá lớn.

Về phương diện ổn định vĩ mô cũng có nhiều khía cạnh đáng lo ngại. Ví dụ như tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm tăng, kéo theo sự giảm sút thu nhập lao động. Đây là hệ quả tất yếu của tình trạng DN phải đóng cửa nhiều hoặc phải giảm mạnh công suất hoạt động. Kết cục là sự suy yếu của tổng cầu kéo dài - một trong những tác nhân gây ra tình trạng trì trệ và suy giảm tăng trưởng.

Ngoài ra, còn những "cục máu đông" đang chặn dòng lưu thông kinh tế - nợ xấu, tồn kho bất động sản - chưa giải tỏa được. Có ý kiến cho rằng còn phải tính đến tình trạng "tồn kho chính sách, tồn kho thể chế lạc hậu", hiểu rộng ra - "tồn kho" cả một mô hình tăng trưởng đã lỗi thời. Mà đây chính là những nguy cơ đe dọa lâu dài sự ổn định vĩ mô.

Tổ hợp những yếu tố trên, dù chưa phải là tất cả những nguyên nhân gây khó khăn cho nền kinh tế, dễ hình dung ra nền kinh tế nước ta đang lâm vào tình thế khó khăn cỡ nào. Phải nói là rất khó. Đó là tình thế vòng xoáy "suy giảm tăng trưởng và bất ổn vĩ mô".

Cũng có thống kê cho thấy khá nhiều DN được lập mới. Vậy có nên coi đó là tín hiệu khởi sắc?

- Đúng là nhiều DN mới đã được thành lập. Theo báo cáo, thông thường số này còn nhiều hơn số DN đóng cửa. Nhưng đó chỉ là con số đăng ký. Số đăng ký mới được thống kê không nhất thiết là số hoạt động, có đóng góp thực vào tạo việc làm và tăng trưởng.

Nhìn vào tương quan con số giữa số DN mới thành lập và số đóng cửa, dễ gây ra sự ngộ nhận là tình hình vẫn ổn, sức sống DN vẫn tốt. Ngộ nhận như vậy sẽ dẫn tới ảo tưởng chính sách. Rất nguy hiểm.

Hiểu một cách đơn giản và thực tế, muốn biết thực sự số DN mới đi vào hoạt động thế nào thì phải kiểm định ở các thông số khác như mức vay vốn tín dụng có tăng không, tiêu thụ điện tăng hay giảm, hay xa hơn, tăng trưởng GDP sau đó có diễn ra tương ứng không.

Đặc thù DN của ta chủ yếu tay không bắt giặc, dựa vào vốn vay. Nhưng chỉ số tín dụng không tăng, điều đó chứng tỏ con số DN đăng ký thành lập mới không có được bao nhiêu ý nghĩa. Và như vậy, hoặc con số này thực tế không có ý nghĩa, hoặc số DN mới làm ăn rất kém hiệu quả, do đó, ít hoặc không tác động gì đến các biến số liên quan trong nền kinh tế.

Nền kinh tế nguội lạnh sẽ nguy kịch

Thưa ông, thực tế cũng có một điểm sáng nổi lên trong những tháng đầu năm nay là lạm phát đã được kiềm chế?

- Đúng là lạm phát đã giảm như mục tiêu đề ra. Điều này góp phần kéo lãi suất xuống, giúp DN tiếp cận vốn dễ dàng, giá cả được kiềm chế ổn định.

Tuy nhiên, cũng phải thấy hai mặt của vấn đề. Ta ca ngợi thành tích giảm lạm phát nhưng cũng cần thấy cái giá phải trả cho việc kéo lạm phát giảm xuống.

Trong những năm qua, chính biện pháp thắt chặt tiền tệ là yếu tố ngắn hạn trực tiếp và chủ yếu kéo giảm lạm phát. Nhưng thắt chặt tiền tệ "quá mức" đã khiến nhiều DN lâm vào tình cảnh khó khăn, bi đát. Nói như vậy có nghĩa là chủ trương hạ lạm phát là đúng, chủ trương thắt chặt tiền tệ là đúng. Nhưng cách "thắt chặt" thế nào để ít gây tổn thất thì lại phải thận trọng.

"Thắt" mạnh đột ngột khi nền kinh tế và các DN đang ốm yếu, đang cần tiếp máu thì nhiều DN sẽ phải "ra đi". Thực tế trong hơn 2 năm qua, có thể nói ta đã phải trả giá rất đắt để có được sự ổn định, dù đó là sự ổn định không vững chắc.

Suốt giai đoạn 2007 - 2011 nền kinh tế vốn dĩ đang bị yếu sẵn. Sau đó khi chúng ta ban hành chủ trương thắt chặt lại càng khiến cho nền kinh tế yếu thêm. Trong khi đó, nếu chỉ thắt chặt vừa phải thì tốc độ lạm phát có thể giảm chậm mà DN đỡ bị kiệt quệ. Đây là một bài học rất quan trọng.

Tôi cho rằng thành tích giữ ổn định giá cả và giảm lạm phát phải nhìn nhiều mặt, nếu không sẽ càng gây thêm ảo tưởng. Bởi vì lạm phát thấp không hẳn là dấu hiệu của sự ổn định vững chắc. Nhiều DN phải đóng cửa cũng là bất ổn vĩ mô, cầu thị trường thấp cũng là bất ổn. Một khi nền kinh tế nguội lạnh thì đó chính là bất ổn, thậm chí còn mang tính nguy kịch hơn.

Nhưng có một vấn đề khiến nhiều người quan ngại rằng các số liệu và thống kê đưa ra chưa nhất quán, thậm chí không chính xác so với thực tế khiến việc đánh giá tình hình bị sai lệch?

- Rõ ràng với cách cung cấp thông tin như lâu nay thì cơ sở để thiết kế chính sách rất khó chuẩn xác. Rất khó, nếu không nói là không thể xây dựng những chính sách đúng và tốt với một cơ sở thông tin, dữ liệu thiếu, yếu và sai.

Về thực trạng thông tin ở nước ta hiện nay, cứ nhìn vào một lĩnh vực phải cung cấp thông tin công khai và "chuẩn" là thống kê việc làm là thấy sự chưa chính xác. Ai cũng nhìn thấy vài năm qua, số DN phá sản nhiều đến vậy mà thống kê cứ tuyên bố việc làm lại cứ tăng lên mà không có bất kỳ sự giải thích nào.

Tại thời điểm hiện nay, thống kê số việc làm mới được tạo ra vẫn tăng đều đặn, giống như thời nền kinh tế "ào ào" tăng trưởng lúc mới đổi mới. Thông tin việc làm, thất nghiệp, như vậy rõ ràng là không hề có sức thuyết phục, thiếu logic, thậm chí gây ra sự thiếu lòng tin trong dân. Nên nhớ rằng chưa cần đến những bộ số liệu tỷ mỉ, sạch sẽ, tự bản thân logic kinh tế đã cho thấy sự thiếu logic của cách tư duy đó.

Công khai minh bạch là yêu cầu hết sức quan trọng. Xã hội cần các số liệu để kiểm chứng, như thế mới có điều kiện để làm chính sách đúng. Muốn có chính sách đúng thì con số thống kê phải đúng, phải có cơ sở.

Đó là chưa bàn đến tình trạng chính sách thì đúng rồi, ban hành kịp thời rồi nhưng khởi động để đi vào thực tiễn thì lại chậm trễ.

Chính phủ phải ưu tiên trả nợ doanh nghiệp

Ông có gợi ý gì về những trọng tâm cần ưu tiên làm từ nay đến hết năm?

- Có ba vấn đề nên làm.

Thứ nhất là thay đổi cách tiếp cận mục tiêu ưu tiên. Thứ hai là tái cơ cấu và thứ ba là xây dựng chương trình phục hồi nền kinh tế.

Cụ thể là gì thưa ông?

- Cách tiếp cận logic mục tiêu của mấy năm qua không giúp nền kinh tế tháo gỡ khó khăn. Ngược lại, tình hình còn gay go hơn. Bây giờ, phải có cách tiếp cận mục tiêu khác đi thì mới giải quyết được vấn đề.

Theo tôi, hiện nay, trong cấu trúc mục tiêu, chưa cần tính vội đến mục tiêu tăng trưởng GDP bao nhiêu %. Cái cần ưu tiên hiện nay là giải tỏa các "cục máu đông", tập trung giải quyết một số "tọa độ" tái cơ cấu trọng điểm - ví dụ chỉ tập trung tái cơ cấu thí điểm 1-2 tập đoàn kinh tế nhà nước.

Nhưng giải quyết nợ xấu và tái cơ cấu là công việc tốn rất nhiều tiền. Ưu tiên giải quyết chúng trong điều kiện nguồn tài lực cả công lẫn tư của nền kinh tế rất yếu nghĩa là trước hết phải ưu tiên dành nguồn lực cho chúng. Sau đó mới tính xem còn bao nhiêu tiền để đầu tư tăng trưởng. Logic vượt thoát tình trạng "vòng xoáy" lưỡng nan hiện nay là ở đó. Dĩ nhiên, có thể đi vay để đáp ứng "hài hòa" các mục tiêu. Nhưng điều đó không làm thay đổi logic ưu tiên các nhiệm vụ.

Như vậy cách tiếp cận là phải thay đổi cơ chế phân bổ nguồn lực. Tăng trưởng là quan trọng nhưng phải theo logic ưu tiên, tạo ra nguồn lực để đem lại cơ sở cho phục hồi tăng trưởng.

Vậy ứng xử thế nào với cục máu đông nợ xấu?

- Nợ xấu ngoài nguyên nhân do DN vay không có tiền trả còn có một tác nhân khác là nhà nước. Thực chất vấn đề là ở chỗ Chính phủ và chính quyền các địa phương đang nợ các DN tiền thanh toán các dự án, công trình xây dựng cơ bản. Theo thống kê khá chính thức thì số nợ này lên đến gần 100.000 ngàn tỷ đồng.

Hơn lúc nào hết, Chính phủ phải lo trả món nợ này cho DN. Động thái vừa qua của Chính phủ chưa đủ quyết liệt để giải tỏa vấn đề này.

Việc Chính phủ ưu tiên trả nợ cho DN sẽ giúp giải tỏa cục máu đông, lưu thông kinh tế tăng lên, tạo được lòng tin của DN với Chính phủ. Lòng tin phục hồi. Cơ sở tăng trưởng cũng được phục hồi. Quả thực, nếu xử lý được nợ xấu thì DN sẽ tiếp cận được vốn, tạo được việc làm, thị trường cũng ấm dần lên.

Ta không nên kỳ vọng việc xóa nợ xấu diễn ra nhanh. Ta chưa hề có kinh nghiệm nào về vấn đề này. Đây là chỗ phải rõ ràng minh bạch. Không ít người nghĩ rằng mọi chuyện sẽ "một phát ăn ngay". Kinh nghiệm thế giới - không có ngoại lệ, đó là một mong ước - tham vọng có màu sắc hoang tưởng.

Ngoài những giải pháp trên, ông có gợi mở gì về định hướng chính sách dài hạn?

- Nên có một chương trình phục hồi kinh tế tương đối dài hạn hơn là kế hoạch cho từng năm một. Nên đặt ra một kế hoạch phục hồi, chương trình phục hồi kinh tế trong khoảng thời gian 3- 4 năm chứ không nên câu nệ.

Bởi nếu tính theo kế hoạch từng năm thì giải pháp đề ra cũng chưa thể phát huy hết "công suất" được. Mọi chính sách phải có thời gian đủ dài mới phát huy hiệu ứng. Nền kinh tế đang rất yếu. Nếu nó có đến đáy rồi thì phục hồi cũng chậm. Đường phục hồi có lẽ (và tốt nhất là) hình chữ U chứ không thể (và không nên) đi lên ngay.

Kế hoạch phục hồi trong 3 - 4 năm bao gồm cả tăng trưởng, ổn định vĩ mô theo nghĩa ngắn hạn và quan trọng hơn là nối chính sách trước mắt với những chuyện dài hạn, như xóa nợ xấu, tồn kho bất động sản, tái cơ cấu.

Xin nhắc lại là trong bối cảnh khó khăn như hiện nay, niềm tin cho khả năng phục hồi của nền kinh tế có thể không rầm rĩ nhưng cách tiếp cận đó cho thấy một triển vọng chắc chắn và khả thi hơn.

Thư viện marketing

Tin bài khác:

Tuesday, May 28, 2013

Chiến lược PR Marketing trong 7 ngày

Xây dựng những mối quan hệ công chúng cho công ty của bạn luôn là yêu cầu đặt ra vào bất cứ thời điểm nào. Nhiều công ty rất muốn thực hiện thành công các chiến dịch PR (Public Realation), nhưng họ không biết phải khởi đầu từ đâu và triển khai như thế nào?

Trả lời câu hỏi này không khó khăn chút nào. Bạn chỉ cần thực sự nỗ lực và triển khai theo đúng một quy trình nhất định. Dưới đây là cách để bạn thực thi thành công một chiến dịch PR chỉ trong vòng 07 ngày.

Ngày thứ nhất: Xác định rõ mục tiêu của bạn

Bạn hãy khởi đầu bằng việc lên danh sách những mối giao tế công cộng trong thị trường mục tiêu của bạn. Những mối giao tế này phần lớn là với các tạp chí như tạp chí hàng tuần, báo ngày, tạp chí chuyên ngành kinh doanh, những nhà quảng cáo miễn phí tại địa phương, hay các tạp chí của Phòng thương mại khu vực.
Bạn không cần thiết phải liên lạc với các cơ quan báo chí quốc gia trừ khi câu chuyện PR của bạn thật sự nổi bật trên phạm vi toàn quốc hay bạn có một mối quan hệ mật thiết nào đó với cơ quan báo chí quốc gia. Tiếp theo, bạn hãy lên danh sách những đài phát thanh truyền hình tại khu vực thị trường mục tiêu của bạn. Những đài này bao gồm đài AM, FM, đài phát thanh phổ thông, đài phát thanh của trường đại học, …, và nhìn chung là tất cả.

Ngày thứ hai: Lập cơ sở dữ liệu các số điện thoại, địa chỉ liên lạc của các tạp chí, đài phát thanh truyền hình mà bạn xác định trong ngày thứ nhất.

Đối với một mối quan hệ giao tế công cộng, bạn cần xác định đâu là cách thức thông báo hay những thông tin đăng tải phù hợp nhất. Một khi bạn hoàn thành được công việc này, bạn hãy tìm ra ai là chủ bút hay phóng viên chịu trách nhiệm chính cũng như đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực mà bạn cần giao tế tại các tạp chí và đài phát thanh truyền hình.
Đôi khi họ là một chủ bút của một chuyên mục nào đó, một phóng viên chuyên viết một lĩnh vực nhất định, một phóng viên đặc trách, hay một biên tập viên quản lý. Đừng gửi bản thông cáo báo chí của bạn tới bất kỳ ai hay tới tất cả mọi người trong tạp chí. Tiếp theo, bạn tiến hành những công việc tương tự đối với các đài phát thanh truyền hình: Tìm ra người phù hợp với các thông cáo báo chí của bạn tại đây như cán bộ chuyên phân công mảng tin tức cho các phóng viên phụ trách, hay biên tập viên mảng tin tức,…

Ngày thứ ba: Xác định câu chuyện PR nào mà bạn sẽ truyền đạt

Hãy suy nghĩ kỹ lưỡng về những chủ đề PR. Bạn đang đưa ra một thông cáo báo chí, truyền đạt một sự thay đổi, trình bày diễn giải một ý kiến hay công bố một khám phá mới? Bạn có một quan điểm bản địa trong một câu chuyện mang tính quốc gia hay không?
Liệu thông tin của bạn có đáng để lên báo chí và không mang trong mình một thành kiến cục bộ không? Tất cả những gì bạn cần là 12 chủ đề PR khác nhau, tính trung bình là cứ một tháng có một thông cáo báo chí trải dài trong thời gian một năm. Tuy nhiên, đừng để điều này bó buộc việc bạn thường xuyên đưa ra những thông tin mới khi nó xuất hiện hay công bố những thông cáo mang tính cập nhập.

Ngày thứ tư: Viết bản thông cáo báo chí thực sự

Chủ bút của các tạp chí thường yêu thích những người nói theo ngôn ngữ của họ. Bản thông cáo báo chí dài một trang được mở đầu với ai, cái gì, ở đâu, khi nào và tại sao sẽ phù hợp hơn với các chủ bút, qua đó bản thông cáo báo chí của bạn càng có nhiều cơ hội xuất hiện một cách nhanh chóng trên tạp chí.
Bản thông cáo báo chí nên bao gồm một vài thông tin cơ bản, trích dẫn lời của một cá nhân có uy tín trong một tổ chức nào đấy và địa chỉ liên hệ của công ty bạn. Đó là tất cả những “chất liệu” cần thiết hình thành nên một bản thông cáo báo chí. Bản thông cáo này không cần phải dài như bản luận văn, cũng như không cần thiết phải có những thông tin đơn lẻ, đi sâu vào tiểu tiết. Nếu chủ bút muốn thêm những thông tin cho câu chuyện, họ sẽ gọi điện cho bạn để bổ sung.

Ngày thứ năm: Gửi bản thông cáo báo chí tới các tạp chí, đài phát thanh truyền hình trong cơ sở dữ liệu mà bạn đã lập vào ngày thứ hai

Một vài chủ bút thích những bản thông cáo báo chí được gửi bằng fax, trong khi đó một xu hướng đang phát triển hiện này là gửi bản thông cáo báo chí qua email. Rất hiếm khi các bản thông cáo báo chí được gửi bằng thư tín thông thường; tuy nhiên, trong một vài trường hợp việc gửi bằng thư tin thông thường là cần thiết nếu bản thông cáo báo chí của bạn có kèm theo một vài bức ảnh.
Bạn hãy tìm ra cách thức mà các chủ bút, phóng viên và nhà sản xuất ưa thích nhận bản thông cáo báo chí của bạn, bởi nếu vậy thì cơ hội xuất hiện nhanh chóng trên các tạp chí, đài phát thanh truyền hình sẽ lớn hơn rất nhiều.

Ngày thứ sáu: Sử dụng bản thông cáo báo chí cho những việc khác

Thông thường bản thông cáo báo chí không được đăng tải toàn bộ, các chủ bút sẽ biên tập lại chúng, cắt đi những phần không cần thiết, cũng như không phải tạp chí nào cũng đăng tải bản thông cáo báo chí của bạn. Đừng để việc này khiến bạn dừng đăng tải bản thông cáo và cố gắng đưa nó ra với công chúng.
Có một số công việc khác bạn có thể thực hiện với những bản thông cáo báo chí. Bạn có thể đăng tải chúng trên trang web của mình. Bạn có thể sử dụng chúng trong các direct-mail gửi tới khách hàng. Bạn có thể sử dụng chúng trong hộp thư trả lời điện thoại lúc đường dây bận,… Sử dụng những thông tin của bạn ở bất kỳ đâu có thể, và bạn sẽ ngạc nhiên với những kết quả bất ngờ mà bạn có được, qua đó hình ảnh công ty bạn sẽ ngày một phổ biến hơn trong công chúng.

Ngày thứ bảy: Tiếp tục những nỗ lực của bạn nhằm thiết lập mối quan hệ gần gũi hơn với các chủ bút, phóng viên và nhà sản xuất chương trình truyền hình

Mối quan hệ giữa bạn và các cơ quan báo chí truyền hình càng gần gũi bao nhiêu, bạn càng có khả năng tiếp cận công chúng dễ dàng bấy nhiêu. Thời điểm để thực hiện công việc này không phải là khi bạn có một câu chuyện “sốt dẻo”.
Hãy tận dụng mọi thời gian có thể nhằm tạo dựng những mối quan hệ thân thiết nhất. Nhờ đó, sau này bất cứ khi nào bạn có một tin tức “sốt dẻo” hay một câu chuyện hấp dẫn, bạn sẽ biết ngay ai là người mà bạn cần tiếp xúc trực tiếp và nhanh chóng có được những kết quả PR tốt nhất.
Bạn hãy dành một chút thời gian trong mỗi ngày để thực thi theo đúng bảy bước trên, và một ngày nào đó bạn sẽ trở thành một chuyên gia trong “lĩnh vực PR Marketing”. Hơn tất cả, yếu tố hấp dẫn nhất của chiến lược PR này đó là chi phí. Trên phương diện guerrilla marketing (marketing theo kiểu du kích), kiểu PR này hoàn toàn không đắt đỏ chút nào, nó đơn thuần đòi hỏi ở bạn yếu tố thời gian, sinh lực và trí tưởng tượng.

Tổng hợp