Monday, April 22, 2013

Kỹ năng làm giàu: Xử sự với tiền bạc như bạn

[Thư viện marketing] "Có tiền và sẵn tiền để mua những gì mình cần là điều tốt, nhưng đôi lúc xem xét lại và biết rõ rằng bạn không đánh mất những gì mà tiền không mua được, ấy cũng là điều tốt không kém" - Horace Mortimeer 

Từ xa xưa con người, đã bị đồng tiền mê hoặc, Ngày nay, hơn bao giờ hết, tiền trở thành vật trung gian để đánh giá sự thành đạt của con người. Tất nhiên giá trị của đồng tiền không phải tự thân nó hiện hữu ở vật mà nó mua được. Có điều khi xã hội phức tạp hơn, thì ý nghĩ cho rằng ‘đồng tiền là tốt’ đã kém đi sức lôi cuốn nên chẳng lạ gì mà đã phát sinh được một số huyền thoại về tiền.

TIÊU ĐIỂM
  1. Hãy quên đi những huyền thoại về tiền bạc đã từng trì trệ bạn 
  2. Tiền bạc không tốt, cũng chẳng xấu – xấu tốt tuỳ cách sử dụng tiền của bạn 
  3. Có dư giả bạn mới mong giúp được người khác vì lá rách sao dùm được lá rách 
  4. Tiền là bạn 
  5. Thành công về tài chính sẽ vững như kiềng ba chân: Trước tiên bạn phải làm ra tiền, thứ đến phải biết tiết kiệm và sau hết phải biết đầu tư khôn ngoan.
1. HUYỀN THOẠI SỐ MỘT:  “Tiền đâu quan trọng:” 

“Nó quan trọng lắm lắm chứ, thật sự là rất quan trọng, nếu không có nó làm sao bạn mua được thực phẩm, lấy đâu ra nhà để ở, tiền đâu học hành, chữa bệnh khi ốm đau. Tiền là điều quan trọng cho người sống trong xã hội văn minh hiện nay. Nếu cứ tranh luận và phân tích cặn kẽ về tác động của nó để rồi cho rằng nó chẳng quan trọng như những thứ khác thì thật là một điều ngớ ngẩn. Chẳng có ai thay thế tiền bạc trong lĩnh vực hoạt động của nó.” - Earl Nightingale

Thiếu tiền, - Chúng ta mất đi những điều chúng ta cần để tạo ra một cuộc sống hạnh phúc và thỏa mãn. Rõ ràng, có những thứ không thể mua được bằng tiền – chẳng hạn tiền có thể mua được bạn bè chứ không mua được tình yêu. Điều quan trọng là phải nhận ra ưu điểm và những giới hạn của nó. 

2. HUYỀN THOẠI SỐ 2: “Tiền không làm cho bạn hạnh phúc”. 

Có những thứ do đồng tiền mang lại có thể làm cho nhiều người cảm thấy hạnh phúc đấy chứ. Chẳng hạn có tiền để cho kẻ khó, có tiền để ăn học. Có tiền để vui chơi, có tiền để chữa bệnh. Tiền bạc cho bạn có thể tự do thực hiện những điều làm cho bạn hạnh phúc. Khi có tiền, bạn sẽ sống thoải mái hơn, và tạo cho con cái bước khởi đầu đi vào cuộc sống thuận lợi hơn. Đó là tất cả những điều mà bạn có thể mang lại cho bạn. Và sự thật ấy đã nói lên rằng tiền bạc chẳng là gì nó chỉ là một tên đầy tớ. Nó là phương tiện giúp chúng ta sống khá hơn, nhìn xa trông rộng hơn, và nhân ái hơn. 

Nếu bạn còn chưa tin rằng tiền là một thứ gì đáng ước ao, thì bạn hãy xem xét lời bình giải sau đây của một bạn đọc. 

“Tôi thật chán ngáy cho cuộc sống của mình. Nghèo đúng là một cái tội. Thu nhập của tôi cố định vì trình độ quá hạn chế. Ước chi tôi có thể kiếm được nhiều tiền hơn, thế nhưng điều kiện thì có hạn, làm sao có được cơ hội”. 

Những lời trên là thật đối với những ai đang phải vật lộn với những nhu cầu tối thiểu. Đối với những người quá nghèo, cuộc sống đúng là một cuộc chiến vô vọng, khó mà vượt thắng nổi. 

Điều ấy lại càng bất hạnh hơn khi người thốt ra những lời ấy lại là một thanh niên 31 tuổi, sống trong một đất nước thuộc dạng phồn vinh nhất thế giới. Nhưng điều may mắn là anh ta còn trẻ nên vẫn còn đủ thời gian để Làm Giàu. Anh ta còn có thể tìm lại được lòng tự trọng và còn có hy vọng hướng về tương lai. 

Nếu bạn nghĩ giàu chẳng hơn gì nghèo, thì bạn thử hỏi mấy ai đang giàu lại muốn mình nghèo đi hoặc biết bao con người nghèo khó đang ước ao được giàu. 

3.HUYỀN THOẠI SỐ BA: “ Giàu đâu phải chuyện dễ” 

Vì khổ nổi là tôi đang sống trong một đất nước mà cơ hội làm giàu thật khó. Đâu phải thế - việc thành đạt về tiền tài dễ như bước bảy bước, mỗi bước là một trong bảy cách làm gìau. Phần khó nhất ấy là dấn mình bước cái bước đầu tiên. Ai mà chẳng mơ ước được giàu sang, nhưng chỉ có những ai biết biến cái mộng ước đó thành hành động, thì người ấy sẽ gặt hái được thành quả 

4.HUYỀN THOẠI SỐ BỐN: “Tôi phải làm việc cất lực mới mong giàu được” 

Vô nghĩa! Vậy bạn nghĩ rằng một người kiếm được 300.000.000 đồng một năm thì họ phải làm việc vất vã gấp 10 lần người kiếm được 30.000.000 đồng một năm à? Sự thật đúng là người giàu làm việc nhiều hơn nhưng thường thì họ vui vẻ làm việc và họ vui hưởng những thành quả của họ 

Thử hỏi có ai bỏ thời giờ suy nghĩ làm cách nào để gia tăng thu nhập. Ngay cả những người thu nhập trung bình cũng có thể trở nên giàu có mà đâu cần phải làm việc 12 tiếng một ngày, 7 ngày một tuần đâu. Giá như họ biết áp dụng từng bước trong bảy cách làm giàu, thì bất kỳ ai – kể cả những người có thu nhập khiêm tốn , vẫn có thể an toàn về mặt tài chính. Một trong những bí quyết làm giàu là liên tục cải thiện các kỹ năng của mình, vì chỉ có thế bạn mới tăng tiến được khả năng kiếm tiền. 

5.HUYỀN THOẠI SỐ NĂM: “Chỉ những bác sĩ, luật sư, kế toán và những đại thương gia mới mong làm giàu được thôi” 

Chẳng có nghề nào là nghề “đúng” để làm giàu cả. Người giàu thuộc đủ mọi thành phần và mọi nghề nghiệp. Có khi chính những người xem chừng ít hy vọng làm giàu lại là những người rất giàu. Bạn đâu thể phán đoán sự giàu có qua chiếc xe họ lái hay áo quần họ mặc được. 

Sự thật, những người có chuyên môn và đại thương gia đều có thu nhập cao, nhưng đâu có gì bảo đảm là họ giàu hay họ sẽ giàu. Người có thu nhập cao thì dễ giàu, nhưng có gia tăng được thu nhập mới là cách độc đáo trong bước đường làm giàu.

6.HUYỀN THOẠI SỐ SÁU: “Chỉ những người có số đỏ mới mong giàu nổi” 

Thành đạt về tiền bạc hiếm khi nhờ số đỏ, kể cả trúng số, hưởng gia tài, lấy được chồng (vợ) giàu, dù rằng may mắn cũng đóng một phần, nhưng số may hiếm khi giữ được sự giàu có. Đã có bao tấm gương về những triệu phú nhất thời, trong đó những kẻ trúng số là điển hình nhất. Nhiều trường hợp có tiền theo kiểu ấy liền sa vào nhiều thứ cám dỗ, sắm xe mới đi du lịch, tân trang nhà cửa và nhiều thứ khác nữa tha hồ mà vẽ ra. Hiếm những con người có tiền như vậy mà khá hơn về mặt tài chính. 

Thành đạt đâu phải là điều xảy ra ngẫu nhiên. Phần lớm những con người giàu có thành đạt là nhờ họ đã biết hoạch định. Vận may của một vận động viên chính là chỗ anh (cô) ta tập luyện nhiều giờ hơn là những ai chỉ tập được chăng hay chớ, đúng vậy không nào? Vận may là khi một người luôn tìm sự tăng tiến hơn là một anh công nhân làm việc một cách lấy lệ chứ? 

Phần lớn những người giàu có là những người kiên trì và tận tụy nhiều năm tháng. Họ cố gắng tìm tòi cách nào đó để cải thiện kỹ năng và học tập sự thành đạt của người khác. Sự hoạch định ấy đã khởi sự từ những tháng năm thiếu thời, nghĩa là từ rất sớm. Nhưng nói thế không có nghĩa là lúc nào cũng quá trễ để bắt đầu. Chỉ có điều, bạn chuẩn bị càng sớm, bạn càng dễ thành đạt. 

7.HUYỀN THOẠI SỐ BẢY: “Tiền tài và sự tham lam là hai từ giống nhau, nhưng chỉ phát âm khác nhau mà thôi” 

Huyền thoại này đã từng được bộ phim Phố Uôn (Thị trường tiền tệ Mỹ), tán tụng qua nhân vật chính Michael Douglas do Gordon Gecko thủ vai, hô lên rằng. “Sự tham lam là tốt. Sự tham lam là đúng…”. 

Xin đừng nhầm lẫn tham lam với tiền bạc. Tham lam là không tốt. Tham lam là đồi bại, nó đánh mất tín đáng được tôn trọng, nó xúi dục con người thực hiện những điều không nên làm. Tiền bạc mua thế lực và thế lực là một sự khống chế. Với tiền bạc một thương gia có thể tác động các nếm trải, các phong cách, các quan điểm và trên hết là cách tiêu xài lợi tức thế nào. 

Tiền bạc thì rất tốt. Tiền cho chúng ta tự do lựa chọn. Nó mang lại những điều giúp chúng ta thoải mái và cảm thầy hài lòng. Nó kiến tạo sự đánh giá về mình và lòng tự trọng, rõ ràng nó thăng hoa chất lượng cuộc sống và hạnh phúc gia đình cùng bạn bè. 

Những phê phán về tiền bạc là đúng khi người ta nói rằng, chỉ vì chạy theo sự giàu sang mà khiến mình hư hỏng và tai hại. Rõ ràng nhiều người rơi vào con đường truỵ lạc là do tiền. Biết vậy, bạn nên tránh. Chứ còn nguyền rủa tiền chẳng khác gì đỗ lỗi cho xe cộ gây ra tai nạn, tử vong. Lỗi ấy đâu phải tại chiếc xe mà là do người lái chứ. 

Bên cạnh những gương xấu do việc sử dụng tiền bạc, cũng có bao tấm gương cho thấy những con người đã dùng tiền bạc để giúp đỡ kẻ khác. Hãy noi theo những con người ấy một khi bạn có tiền dư giả, như hỗ trợ phong trào thể thao địa phương, đóng góp vào những đề án môi trường, phân phát học bổng và nhiều việc thiện khác nữa. Hãy làm như vậy và bạn sẽ thấy việc thành đạt của bạn đã mang lại cho bạn niềm hạnh phúc vô bờ bến. Chúng ta phải thừa nhận rằng tiền là một phần tất yếu của xã hội và nó có thể mua được nhiều thứ giúp cho cuộc sống của chúng ta và của cả người khác được dễ chịu hơn. 

8.HUYỀN THOẠI SỐ TÁM: “Hiện nay làm ra tiền khó hơn trước đây” 

Cơ hội ở khắp mọi nơi. Mọi thứ bạn thấy được đều có thể có cơ hội trong đó. Hãy tin như vậy và bạn chẳng bao giờ thiếu tiền. Tôi biết một cậu thiếu niên 17 tuổi luôn kiếm được tiền trong bất cứ việc gì mà cậu ta nhúng vào. Từ những chuyện nhỏ nhặt nhất mà mọi người không để ý tới, chẳng hạn như việc thu lượm những trái thông để bán làm chất đốt dưới dạng đóng gói cẩn thận. Những người hưởng lương hưu, những người lãnh tiền trợ cấp lúc nào cũng chật chờ mua thứ nhiên liệu sạch và tiện lợi ấy cuả cậu! Nói trắng ra là quanh bạn có hàng trăm cơ hội lúc nào cũng chờ sẳn. Điều cần thíết là bạn phải có năng lực và sáng tạo để hành động. 

9.HUYỀN THOẠI SỐ CHÍN: “Cảnh nô lệ đã thành quá khứ” 

Cảnh nô lệ vẫn còn đó và có khi còn nhiều hơn nữa! Phần lớn con người đang làm việc hiện nay là những nô lệ - chẳng có gì lạ cả. Tuy nhiên mức độ bốc lột không quá quắt như trước đây nhưng cơ bản vẫn còn; Phần lớn con người là nô lệ cho những khoản nợ nần của họ. 

Giàu có giup con người thoát khỏi cảnh làm việc cực nhọc, thoát khỏi sự buồn tẻ của một tuẩn lao động 48 tiếng đồng hồ, thoát khỏi cảnh đeo đẳng quyền lợi mới, và thoát cảnh sống bám vào người khác.

Hoài bảo của mỗi người chúng ta là phải tiêu pha nhiều vốn quý và giới hạn thời gian vào những việc mà chúng ta thích làm hơn. Được thế, chúng ta phải tìm mua sự độc lập. Tiền bạc là bí quyết làm giảm nhẹ những gông cùm nô lệ. 

10.HUYỀN THOẠI SỐ MƯỜI: “Được ăn học mới mong được thành đạt” 

Chẳng có thứ gì như một loại giấy thông hành miễn phí để đạt đến thành công. Mặc dù những phẩm chất tốt giúp bạn đặt chân lên ngưỡng cửa thì vẫn còn cái đặng của số phận còn lớn hơn các đẳng cấp và văn bằng giúp bạn thành công. 

Nếu được ăn học sẽ bảo đảm thành công thì các trường đại học đã chật cứng những người giàu có nhất trong thế gian này mất. Điều này tất nhiên không phải thế. Những con người giàu có trong bất kỳ quốc gia nào thường là những thương gia với cổ phần lớn ở một hay hơn tại những công ty ăn nên làm ra, hay những nghề cần giàu ốc tưởng tượng và sáng tạo – chẳng hạn những họa sĩ truyện tranh và các diễn viên . Rất ít người là những đó có học vị. 

Đúng ra họ là những người có kỹ năng phân tích và sáng tạo, nghĩa là những kỹ năng bắt kịp những ý tưởng và những cách thức mới để thực hiện công việc. Họ biết cách làm việc khác đi và hơi khá hơn. 

Chính vì thế, thị trường việc làm hiện nay và trong tương lai chính là kỹ năng. Thị trường lao động cũng như những thị trường khác nhưng mặt hàng của nó là kỹ năng; và đó là điều bạn phải gắng mình vào nếu bạn muốn thành công. Những kỹ năng này có thể là khả năng sáng tạo, khả năng thông tin, khả năng lãnh đạo, khả năng đúc kềt từ những sự kiện hay một xu hướng, khả năng gây hưng phấn người khác.v.v.. Mục đích của việc xua tan huyền thoại cho rằng chỉ những ai được ăn học mới thành đạt giúp cho bạn thấy rằng ăn học vẫn chưa bảo đảm được thành công. Có lẽ sự giáo dục tốt nhất là việc học hỏi ở những người thành công khác, hay thường xuyên tìm tòi trong sách vở. Những điều này cho ta những tư tưởng mới và những cách nhìn mới, tư duy mới.

Sự thể đơn giản là ai cũng có tìm năng hiểu biết để trở nên giàu có, trừ những ai bị thiếu năng lực về một phương diện nào đó. 

Đừng nghĩ rằng bạn không thể giàu có được khi thấy nhiều người sáng giá hơn bạn. Tất cả những ai có sự hiểu biết trung bình đều có thể làm giàu, không nhất thiết phải xuất chúng. 

11.HUYỀN THOẠI SỐ MƯỜI MỘT:  “Tiền bạc sẽ chữa lành cảnh bần hàn

Sự nghèo nàn không là vấn đề của vốn liếng, mà nó là vấn đề của sự vô vọng. Giàu có là sản phẩm của trí khôn con người. Bí quyết của sự giàu sang là điều khiển được suy nghĩ và quan điểm của bạn vì chính suy nghĩ của bạn sẽ dẫn dắt các hành động của bạn và hành động thì sinh ra kết quả.

Chúng ta đang sống trong thời đại đầy cơ hội thế mà cái nghèo vẫn nhan nhãn như trước kia.

Việc cho tiền những kẻ khó giống như những túi đồ ăn cho người đói trong Vườn Địa Đàng 

Chúng ta hay suy nghĩ thế này, nếu một người nào đó được cho 10.000.000 đồng và một cuốn sách chứa đầy sự khôn ngoan, bạn nghĩ xem anh ta sẽ chọn cái nào? Đa số sẽ lấy 10.000.000 đồng. Đấy chính là câu trả lời vì sao người ta cứ nghèo mãi, khi mà 10.000.000 đồng kia hết, họ lại trắng tay, chẳng làm nên một lợi tức nào cả. 

12.HUYỀN THOẠI SỐ MƯỜI HAI: “Những ai nhận tin trợ cấp là những người thua cuộc.

Hầu như ai cũng có giai đoạn cần trợ giúp tài chính. Hãy nhìn nhận tiền trợ cấp cho đúng , ấy là sự hỗ trợ thu nhập trong những lúc túng thiếu. Nó không phải là dấu hiệu của sự thất bại và tuyệt đối không được coi là điều kiện vĩnh viễn.

Những huyền thoại đơn giản chỉ là những huyền thoại. Chúng được diễn giải vì đó là điều cần thiết để cảm nhận tốt về tiền bạc để tích luỹ nó.

Sự thành đạt về tài chính là gì?

Chúng ta may mắn sống trong xã hội phát triển và có những cơ hội như nhau. Vậy điều gì khác nữa mà người khác thì giàu có trong khi chúng ta lại không? 

Tắt một lời: Sự Tự Do 

Bạn chỉ cần có nhiều tiền để mua thực phẩm, quần áo, xe cộ, nhà cửa….Nhưng vượt lên những nhu cầu thiết yếu ấy để có cuộc sống hoàn hảo, đó là tiền bạc đáng giá mua sự tự do. Đối với nhiều người, đó là bí quyết gíup họ giảm bớt sự đơn điệu của cuộc sống và sự phụ thuộc vào người khác. Điều đó có nghĩa là bạn có thể dùng nhiểu thời gian hơn đề làm những gì bạn muốn thực hiện. 

Đây cũng là điều mà chúng tôi muốn đề cập tới – cho bạn sự tự do để quyết định điều bạn muốn thực hiện với cuộc sống của bạn.

Đừng để bầt kỳ ai nói rằng sự thành công về tài chính của bạn là phức tạp – không thể thế đuợc! Chúng tôi thật lòng tin vào điều ấy và biết nó là đúng sự thật, hẳn bạn cũng thấy như thế sau khi bạn đọc xong các huyền thoại này. Mọi người mạnh khỏe về tinh thần và thể chất để làm việc điều có khả năng làm giàu thật sự. Những ai quần quật suốt ngày không thể làm giàu, kể cả những người không biết gì về cách làm giàu hoặc không thực hành chúng.

Có sự trớ trêu đến nực cười về sự giàu có, những ai có nó thường không lộ ra và những ai lộ ra thường không có nó, chí ít cho đến giờ! Ngược với niềm tin thông thường, phần lớn là những người giàu không lái những chiếc xe xịn hoặc sống xa hoa mà chỉ sống như những người chòm xóm trung lưu. Những người giàu hầu như là những người làm việc với một công việc quy mô nhỏ hoặc trung bình và còn một điều ngạc nhiên hơn là nhiều người giàu trong xã hội hiện nay không phải là những người kiểm tra những khoản tiền lớn như chúng ta tưởng.


Bề ngoài, người giàu cũng giống chúng ta. Điều khác là họ kiên trì trong những nổ lực của họ và quan trọng hơn là họ chú tâm làm giàu hơn là phung phí nó. Họ có khuynh hướng tích góp và đầu tư. Đa số đều có những mục tiêu rõ ràng, họ biết đích xác họ muốn tích luỹ bao nhiêu và cần bao lâu để đạt được nó. Những người tạo được sự giàu có biết rằng 10.000.000 đồng được đầu tư từ hôm nay sẽ phát sinh thêm hàng năm cho phần đời còn lại của họ. Người giàu biết cách làm cho sự giàu có xảy ra: 
  • Họ hoạch định sự thành công của họ: Họ tự đề ra mục tiêu tự kiếm tiền, họ biết đích xác họ cần dành dụm bao nhiêu mỗi năm cho kế hoạch hưu trí của họ. Cần vạch rõ con số cụ thể vì chúng là cơ sở cho hành động 
  • Họ biến các kế hoạch thành hành động: Sau khi có kế hoạch, họ bám sát và thực hiện nó. 
  • Người giàu là người luôn có kỷ cương: Họ thực hiện kế hoạch hành động chứ không dìm mình vào khoản tiền dành cho lúc hưu trí. Họ biết rằng nếu tiêu hết khoản tiền ấy là đánh cấp tương lai của họ. 
  • Họ tự vệ chóng lại những sự cố bất ngờ: Nghĩa là họ dự phòng để đừng đánh mất điều quý hơn như nhà cửa, xe cộ. ‘điều quý hơn’ còn là khả năng để kiếm tiền. Họ xem xét điều gì có thể xảy ra, liệu việc kiếm cơm hàng ngày có làm họ đổ bệnh hoặc mất khả năng làm việc không? Hay tệ hại hơn nữa, liệu họ có bị đột tử không? 
  • Họ tránh nợ nần: người quản lý tiền bạc giỏi là người tránh nợ nần quá đáng và là người trả nợ sớm hơn nếu có thể. 
  • Họ chuyển đổi thu nhập nhất thời thành thu nhập cố định: Bằng cách dành dụm và đầu tư khôn ngoan. 
  • Họ biết phòng xa: Họ làm cách nào đó để một khoản tiền rất nhỏ sẽ tăng cao hơn. 
  • Họ tiết kiệm từng đồng tiền kiếm được. 
  • Họ ghét sự phung phí
  • Họ thích đầu tư: Vì mỗi đồng đầu tư đều sinh lợi cho họ. 
  • Họ say mê học hỏi những ai có cách làm giàu để họ càng thành công hơn. 
  • Họ có thái độ đúng đắn về tiền bạc: Không bị thúc đẩy bởi sự tham nhũng cũng không xa lánh tiền bạc như một điều hoàn toàn xấu. 
  • Họ không tiêu pha nhẹ dạ và bốc đồng: Giới hạn việc tiêu pha vô ích. 
  • Họ không bị dư luận chi phối nhưng sẽ đầu tư theo sự tin tưởng riêng. 
  • Họ luôn đi tìm cơ hội để làm ra thật nhiều tiền và dành dụm được nhiều hơn. 
  • Họ ý thức khi hành xử đồng tiền: Kiếm tiền là việc ưu tiên nhưng không đánh mất niềm vui sống. 

Truyện ngụ ngôn về chiếc ghế ba chân.

Nhiều người cho rằng việc thành đạt về tài chính đâu phải chuyện dễ - không phải thế đâu. Truyện ngụ ngôn sau đây giúp lý giải điều ấy. 

Ngày xửa ngày xưa có ba thợ thủ công lành nghề. Ngày nọ nhà vua triệu tập cả ba người và yêu cầu từng người nghỉ cách để tạo ra chiếc ghế ba chân thật hoàn hảo (vì nhà vua đang cần). Nhà vua tuyên bố. “ai trong các khanh làm được chiếc ghế ba chân hoàn hảo nhất sẽ được thưởng vô số ngọc ngà châu báo và được tôn vinh khắp nước. Còn hai kẻ thua cuộc sẽ làm mồi cho sư tử. 

Cả ba đều là những trung thần nên họ muốn làm hài lòng quân vương (đồng thời họ cũng chẳng muốn mình trở thành mồi cho sư tử).

Anh thợ thứ nhất vội bắt tay vào việc để trở thành người đầu tiên làm vui lòng nhà vua và anh ta đã chế ra chiếc ghế một chân đỡ lấy mặt ghế tròn. Anh ta hãnh diện đệ trình sản phẩm của mình: “Tâu bệ hạ hạ thần kính dâng bệ hạ chiếc ghế hoàn hảo.” Lúc đầu nhà vua tỏ ra rất hài lòng- đúng là công trình của một bậc thầy. Nhưng rồi nhà vua hỏi, “ngồi cách nào đây?” 

“ Tâiu bệ hạ,” người thợ tự tin trả lời và biểu diễn cho nhà vua xem. Nhưng khi anh ta vừa ngồi lên thì chiếc ghế đổ kềnh và anh ta nằm sóng sượt trên nền nhà. Thế là anh ta bị quẳng vào chuồng sư tử đúng như lời nhà vua đã nói. 

Ngừơi thợ thứ hai biết tin tai họa của người thợ đầu nhưng nghĩ rằng anh là người tin thông hơn. Anh ta đã có cách. Chiếc ghế hai chân hẳng sẽ vững hơn chiếc ghế một chân và chịu được sức nặng của đức vua, kể cả khi trên người nhà vua đầy ngọc ngà châu báo. 

Sau khi làm xong chiếc ghế,anh ta dâng lên nhà vua, và tự hào đây là chiếc ghề hoàn hảo của mình. 

Đúng là một công trình tuyệt vời và chắc chắn nó vững hơn chiếc ghế một chân. 

Nhà vua phán, “Tuyệt lắm”. Nhưng ngồi cách nào đây? 

“Tâu bệ hạ”, anh thợ thứ hai tâu, nó còn mạnh hơn cả bản thân Hercules nữa! xin bệ hạ hãy xem…” 

Nhưng khi anh thợ ngồi lên, anh ta chẳng giữ nổi thăng bằng và ngã sắp mặt xuống nền nhà. Nhà vua nổi giận và truyền ném anh ta vào chuồng sư tử. 

Anh thợ thứ ba suy nghĩ rất lâu cách chế tạo chiếc ghế hoàn hảo và đã học được những lỗi lầm của hai anh bạn trước: Chiếc ghế hoàn hảo phải chắc hơn chiếc ghế đầu và phải vững hơn chiếc ghế của anh bạn thứ hai.

Với tài khéo léo của mình anh ta chế ra chiếc ghế ba chân được bố trí sao cho chúng chia điều trọng tải và cân bằng hoàn hảo sức nặng quanh tâm của nó. 

Anh ta vào cung và khiêm tốn tâu, “tâu bệ hạ” hạ thần xin kính dâng bệ hạ sản phẩm mà bệ hạ đang mong muốn.” 

Đến lúc này thì nhà vua chẳng còn tin vào tài khéo léo của những tay thợ thủ công nữa. Hai kẻ trước đã khoắc lác về sản phẩm của mình rồi. nhưng rồi nhà vua cũng sẵng giọng hỏi, nhưng ngồi làm sao đây!

“ Tâu bệ hạ, hạ thần nghĩ rằng tự bệ hạ xét đoán được. “và nhà vua thận trọng ướm thử vài lần. Chà chà tốt đấy! nó vừa vững vưà chắc. Đúng là tay thợ bậc thầy. Vậy như trẫm đã hứa, giờ khanh muốn bao nhiêu vàng bạc châu báo tuỳ thích và sẽ được tôn vinh khắp nước. 

Sự thể là: Nhà vua thì hài lòng với chiếc ghế ba chân còn người thợ thủ công trở nên giàu có và nổi tiếng. Hàng ngàn chiếc ghế được sản xuất….và người thợ sung sướng suốt đời. 

Thành công về tài chính sẽ vững như kiềng ba chân. Trước tiên bạn phải làm ra tiền, thứ đến phải biết tiết kiệm, và sau hết phải biết đầu tư khôn ngoan. 

Làm giàu giống như chiếc ghế ba chân: Chân thứ nhất là nhu cầu kiếm tiền, chân thứ hai là biết dành dụm đồng tiền mà bạn đã làm ra và chân thứ ba là đầu tư những khoản tiền dành dụm ấy một cách khôn ngoan. 

Cũng như anh thợ đầu, nhiều người nôn nóng tạo sự giàu có và nghĩ rằng cứ kiếm được nhiều tiền hẳn sẽ thành công về tài chính. Tất nhiên chẳng phải như vậy, trừ khi một phần tiền làm ra phải biết để dành và những đồng tiền ấy phải được đưa vào hoạt động.

Lại có những người dành dụm được chút đỉnh nhưng vẫn không giàu vì họ đầu tư kém và đánh mất những gì mà mình dành dụm được.

Chỉ một số nhỏ dân chúng giống như người thợ thủ công thứ ba. Họ làm ra nhiều tiền hơn, họ tiết kiệm từng chút những gì họ làm ra và họ đầu tư những khoản dành dụm ấy một cách khôn ngoan sao cho chúng thật vững vàng và tạo nền tảng cho sự thành công về tài chính và luôn được an toàn.

học marketing Trích đăng từ "7 cách làm giàu"

Thursday, April 18, 2013

Bill Gates: Bất hữu và tiểu sử

[Thư viện marketing] Trước khi về hưu Bill Gates - ông chủ của tập đoàn máy tính lớn nhất thế giới Microsoft - đã đưa ra 10 lời khuyên dành cho các bạn thanh niên trên con đường lập nghiệp.

Chúng tôi xin giới thiệu và mời các bạn tham khảo những lời khuyên bổ ích của người đàn ông giàu nhất thế giới này, có thể một ngày nào đó bạn cũng sẽ trở thành một Bill Gates thứ hai?

10 câu nói bất hữu

1. Thế giới vốn không công bằng. Bạn biết điều này chứ? Dù bạn có nhận thấy sự bất công trong xã hội hay không thì cũng đừng hy vọng làm thay đổi được nó. Việc cần làm là hãy thích nghi với nó.
(Sở dĩ như vậy là một mình bạn sẽ không thể nào làm thay đổi được sự bất công trong xã hội)

2. Mọi người sẽ không bao giờ ngó ngàng đến lòng tự trọng của bạn, điều mà họ quan tâm chính là thành tựu mà bạn đạt được. Do đó, trước khi có được những thành tựu thì bạn đừng nên quá chú trọng hay cường điệu lòng tự trọng của bản thân mình lên.
(Lòng tự trọng quá cao sẽ tỷ lệ thuận với sự bất lợi trong công việc của bạn)

3. Thường thì bạn sẽ không thể trở thành CEO nếu chỉ mới tốt nghiệp trung học. Nhưng khi bạn đã trở thành một CEO thì không còn ai để ý là bạn mới chỉ có tốt nghiệp trung học nữa.
(Lúc này người ta sẽ đánh giá và quan tâm nhiều đến năng lực hơn là bằng cấp của bạn)

4. Khi bạn gặp khó khăn hay bế tắc trong công việc thì đừng có oán trách số phận. Điều bạn học được khi gặp trắc trở chính là kinh nghiệm và bài học để lần sau không bao giờ mắc phải nữa.
(Điều cần làm lúc này là trấn tĩnh và bắt tay làm lại từ đầu)

5. Nên hiểu một điều rằng: Trước khi có bạn, bố mẹ bạn không phải là những người “chán ngắt, vô vị” như bạn của ngày hôm nay đã nghĩ. Đây chính là cái giá rất lớn mà bố mẹ đã phải trả cho sự trưởng thành của bạn.
(Bạn phải có nghĩa vụ đền đáp công ơn với những người đã dành cả cuộc đời mình cho sự sống và trưởng thành của bạn)

6. Khi đi học, bạn đứng thứ mấy trong lớp cũng không phải là vấn đề quan trọng. Nhưng khi đã bước chân ra xã hội thì mọi việc lại không đơn giản như vậy. Dù đi đâu hay làm công việc gì bạn cũng nên tạo đẳng cấp cho mình.
(Luôn tự nhủ rằng bạn sẽ luôn là người đứng đầu, như vậy bạn sẽ có động lực và tinh thần nhiều hơn cho sự nghiệp của bản thân)

7. Khi đi học, bạn luôn mong chờ đến ngày nghỉ lễ, Tết. Khi đi làm thì hoàn toàn không giống vậy, dường như là bạn sẽ không được nghỉ ngơi. Công việc sẽ cuốn bạn đi bất cứ lúc nào kể cả ngày nghỉ.
(Nếu là một nhân viên luôn mong chờ ngày nghỉ lễ thì bạn sẽ bị lạc hậu hơn so với những nhân viên khác. Sự lạc hậu này còn luôn đồng hành với sự đào thải và thất nghiệp).

8. Khi ngồi trên ghế nhà trường, lúc gặp khó khăn trong học tập thì có giáo viên giúp đỡ bạn. Tuy nhiên, nếu lúc đó bạn lại cảm thấy mọi khó khăn đều do những yêu cầu quá nghiêm khắc từ phía giáo viên thì bạn đừng nên đi làm sau khi tốt nghiệp. Đơn giản nếu như không có những yêu cầu nghiêm khắc từ phía công ty thì chắc chắn bạn sẽ không làm được gì và sẽ nhanh chóng thất nghiệp, hơn nữa lúc này sẽ không có ai giúp đỡ bạn cả.
(Nên nhận thức được rằng: Công ty sẽ luôn yêu cầu cao hơn rất nhiều so với trường học. Vì ở trường học, dù bạn có học được hay không thì chỉ ảnh hưởng đến cá nhân bạn. Còn ở công ty bạn có làm được việc hay không thì lại ảnh hưởng đến rất nhiều người)

9. Mọi người đều thích xem phim truyền hình, nhưng bạn không nên xem nhiều vì đó không phải là cuộc sống của bạn. Vì công việc ở công ty mới phản ánh cuộc sống thực của bạn.
(Bạn không nên xem nhiều vì tư tưởng của bạn sẽ bị ảnh hưởng bởi những bộ phim truyền hình đó. Cuộc sống của bạn nên do bạn quyết định)

10. Không bao giờ phê bình người khác sau lưng của họ, đặc biệt đừng bao giờ phê phán sếp là người không có năng lực, điều này là không đúng.
(Nếu bạn có thắc mắc gì trong công việc thì nên nói ý kiến của mình trước mặt mọi người. Còn nếu như bạn luôn giữ thái độ và hành động phản kháng sau lưng người khác thì chỉ có bất lợi cho bạn mà thôi).

Tiểu Sử

William (Bill) H. Gates là Chủ tịch, kiêm Kiến trúc sư trưởng Phần mềm của tập đoàn phần mềm hàng đầu thế giới, Microsoft. Dịch vụ và giải pháp của Microsoft giúp các cá nhân và doanh nghiệp khám phá hết khả năng tiềm tàng của họ. Doanh thu của Microsoft trong năm 2005, tính đến tháng 7, đạt 39.79 tỷ Đô la Mỹ với tổng nhân sự đạt con số trên 61,000 người trên 102 nước và lãnh thổ.

Bill Gates sinh ngày 28 tháng 10 năm 1955 và lớn lên ở Seattle cùng hai chị gái. Cha của ông, William H. Gates II, là một luật sư ở Seattle. Mẹ ông, Mary Gates, giáo sư, đồng thời là thành viên hội đồng quản trị của trường Đại Học Washington và là chủ tịch của United Way International.

Gates học tiểu học ở trường công lập và tư thục Lakeside School. Cũng chính từ đây, ông bắt đầu yêu thích phần mềm và bắt đầu lập trình từ năm 13 tuổi.

Năm 1973, Gates bắt đầu vào học trường Harvard và sống gần Steve Ballmer, nay là Giám Đốc Điều Hành của Microsoft. Trong thời gian học ở Harvard, Bill Gates đã phát triển một phiên bản của ngôn ngữ lập trình BASIC trên chiếc máy vi tính đầu tiên – MITS Altair

Gates rời Havard và dồn hết tâm sức vào Microsoft, công ty được ông thành lập vào năm 1975 cùng một người bạn từ thời niên thiếu, Paul Allen. Nhận thức được vai trò quan trọng của máy tính đối với cá nhân cũng như hộ gia đình, Gates cùng Allen bắt đầu viết phần mềm máy tính. Chính tầm nhìn xa của Gates là nhân tố mang đến sự thành công của Microsoft và nền công nghiệp phần mềm.

Dưới sự lãnh đạo của Gates, Microsoft liên tục phát triển công nghệ phần mềm, biến máy tính trở thành một công cụ dễ sử dụng và chi phí thấp đối với nhiều người. Microsoft cam kết sẽ tiếp tục gắn bó và phát triển lâu dài với nền công nghiệp phần mềm. Năm 2005, Microsoft đã đầu tư 6.2 tỷ Đô la Mỹ vào nghiên cứu và phát triển phần mềm.

Năm 1999, Bill Gates viết cuốn sách Business @ the Speed of Thought. Cuốn sách nói lên sức mạnh của công nghệ máy tính trong giải quyết các vấn đề cốt lõi trong kinh doanh. Cuốn sách được xuất bản trên 25 ngôn ngữ ở hơn 60 nước. Business @ the Speed of Thought đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình và tích cực từ các nhà phê bình, trở thành một trong những cuốn sách bán chạy nhất do tạp chí New York Times, USA Today, Wall Street Journal và Amazon.com, bình bầu. Cuốn sách được xuất bản trước đó của Bill Gates vào năm 1995, The Road Ahead, cũng giữ vị trí số một trong danh sách những cuốn sách bán chạy nhất do tạp chí New York Times bình bầu trong vòng 7 tuần liền.

Gates đã tặng toàn bộ doanh số thu được từ việc xuất bản 2 cuốn sách trên cho một tổ chức phi lợi nhuận, giúp đưa công nghệ vào giáo dục và phát triển các kỹ năng ở con người.

Bên cạnh niềm đam mê dành cho máy tính và phần mềm, Gates đã khám phá ra Corbis, một trong những nguồn thông tin bằng thị giác lớn nhất thế giới - được kết hợp hết sức cầu kỳ giữa các bộ sưu tập nghệ thuật và nhiếp ảnh trên khắp thế giới. Ông còn là thành viên hội đồng quản trị của công ty Berkshire Hathaway, một công ty chuyên đầu tư vào các công ty có sản phẩm được đa dạng hóa.

Gates cũng rất coi trọng các hoạt động từ thiện. Gates và vợ ông là Melinda đóng góp quỹ trị giá 28.8 tỷ Đô la Mỹ (tính đến tháng 1 năm 2005) giúp chăm sóc sức khỏe và nâng cao chất lượng giáo dục toàn cầu, với hy vọng rằng nhân loại sẽ được hưởng những lợi ích này ở thế kỷ 21. Quỹ Bill và Melinda Gates đã đóng góp hơn 3.6 tỷ Đô la Mỹ cho các tổ chức chăm sóc sức khỏe toàn cầu; đóng góp hơn 2 tỷ Đô la Mỹ vào giáo dục, trong đó, chương trình Thư Viện Gates cung cấp máy tính, kết nối Internet và hướng dẫn sử dụng ở các thư viện công cộng ở các cộng đồng có thu nhập thấp ở Mỹ và Canada; đóng góp 488 triệu Đô la Mỹ cho các dự án đặc biệt và các chiến dịch trợ giúp hàng năm.

Gates kết hôn với Melinda French Gates vào ngày 1 tháng 1 năm 1994. Ông có 3 người con. Ông đam mê đọc sách, thích chơi golf và bài brit.

* Tập đoàn Microsoft

Microsoft là Tập đoàn sản xuất phần mềm lớn nhất thế giới. Khởi đầu (năm 1975), Microsoft được thành lập bởi sự cộng tác của hai người bạn là Bill Gates và Paul Allen với mục tiêu là hướng Tập đoàn tới thống trị nền công nghiệp phần mềm.

Trong suốt hơn 20 năm qua, Tập đoàn Microsoft đã tăng trưởng không ngừng với một tốc độ đáng kinh ngạc, luôn nhận được sự chú ý cũng như sự ngưỡng mộ của công chúng. Nhiều thanh niên Mỹ tìm cách bắt chước con đường Bill Gates đã đi, kể cả việc bỏ học giữa chừng!

Ảnh minh họa

Toà biệt thự trị giá 97 triệu USD của Bill Gates.
Microsoft chỉ tuyển những người có năng lực thực sự, có niềm say mê, sáng tạo trong công việc. Rất nhiều người trong số những người được tuyển vào làm việc tại Microsoft đều tốt nghiệp từ các trường đại học và cao đẳng tốt nhất, nổi tiếng nhất, một số khác thì được đào tạo theo chuyên ngành máy tính tốc độ cao.

Năm 1979, với tổng số 25 nhân công, một vài sản phẩm ngôn ngữ máy tính mới và doanh thu hàng năm đạt khoảng 2,5 triệu USD, Microsoft đã xin được giấy phép sử dụng hệ điều hành UNIX và phát triển hệ XENIX – Hệ điều hành cho máy tính thu nhỏ. Lúc này, Microsoft đã thực sự phát triển rất mạnh.

Năm 1980, Microsoft phát triển chương trình DOS cho máy tính cá nhân IBM đầu tiên. Đây là bước đột phá cho sự thành công của Microsoft trong thế giới công nghệ thông tin. Hệ điều hành của Microsoft sớm trở thành tiêu chuẩn của nền công nghiệp này. Thị phần của Microsoft liên tục được mở rộng.

Năm 1981 lại là một bước đột phá khác cho Microsoft. Microsoft được tái tổ chức lại như một tập đoàn cổ phần. Mỗi nhân công có quyền mua cổ phần của Microsoft. Đây cũng được coi là một năm đầy may mắn khi Microsoft đã gặt hái được nhiều thành công, khi máy tính cá nhân IBM đã được công bố và phát hành phần mềm đầu tiên về MS-DOS.

Năm 1986, Microsoft đã phát triển đội ngũ nhân viên lên tới 1.200 người và doanh thu đạt tới 197 triệu USD, trở thành Tập đoàn thương mại lớn và Bill Gates trở thành nhà tỷ phú trẻ tuổi nhất trên thế giới. Nhân công sẵn sàng mua cổ phiếu của Microsoft, ngay cả khi họ chưa biết mua chúng sẽ mang lại lợi nhuận hay không. Chỉ trong vòng chưa đầy 5 năm, rất nhiều người trong số họ đã trở nên giầu có. Vì vậy, đội ngũ nhân viên rất trung thành với Microsoft. 

Ảnh minh họa

Bill Gates được Nữ hoàng Anh phong tước Hiệp sỹ
Năm 1988, tên tuổi của Microsoft đã được cả thế giới biết đến. Đây là Tập đoàn phần mềm đầu tiên trên thế giới đạt được doanh thu hàng năm hàng trăm triệu USD, Bill Gates đã trở thành người giầu nhất nước Mỹ.

Đầu những năm 90 của thế kỷ XX, tổng doanh thu của Microsoft đã đạt trên 500 triệu USD/năm. Microsoft đã vượt qua các đại gia: General Electric, IBM…(là những công ty cũng có thị trường đã nhận được cổ phiếu xanh từ rất lâu trước Microsoft) để trở thành Tập đoàn lớn nhất về công nghệ cao trên thế giới, đến mức mà trên thực tế, Hệ thống Tư pháp của Mỹ bắt buộc phải nhảy vào điều tra về các phi vụ cạnh tranh và độc quyền.

Từ lúc Microsoft chỉ là một Công ty ngôn ngữ máy tính, 10 năm sau, Microsoft đã tung ra các hệ điều hành, một số phiên bản của Word và Window 2.0, tham gia vào các dự án cùng IBM để phát triển hệ điều hành cho máy PC, thiết kế phiên bản cho máy PC của Excel, tạo ra các nhãn CD-ROM, bán được tới hàng ngàn con chuột và những người làm việc ở đây trở nên giầu có nhờ các cổ phiếu.

Sưu tầm & tổng hợp: Thư viện Marketing

Friday, April 12, 2013

Doanh nghiệp Việt vì sao không lớn được?

[Thư viện marketing - KTVN] Khủng hoảng kinh tế không còn là tội đồ lớn nhất và duy nhất dẫn đến sự "gầy mòn" của doanh nghiệp... Xu hướng chung cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam không lớn lên được, Tổng thư ký Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) Phạm Thị Thu Hằng đưa ra nhận định tại một diễn đàn kinh tế lớn gần đây.

Con số cụ thể được đưa ra, là trong tổng số 1.999 doanh nghiệp nhỏ tham gia cuộc khảo sát của Viện Nghiên cứu và quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), sau hai năm 2009-2011, chỉ có 31 doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ lớn thành doanh nghiệp quy mô vừa, nhưng lại có tới 133 doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ thu lại thành... cực nhỏ! 

Một kết quả khảo sát khác cũng cho thấy, trong năm 2013, tỷ lệ các doanh nghiệp có xu hướng giữ nguyên hoặc giảm quy mô sản xuất kinh doanh, hay có thể ngừng hoạt động hoặc đóng cửa giải thể, vẫn áp đảo số doanh nghiệp có thể mở rộng.

Sau hai năm liên tục đón nhận thông tin về số doanh nghiệp chết gần bằng nửa 20 năm, những con số nói trên có lẽ không còn đủ nóng để trở thành tâm điểm cho các cuộc tranh luận về nguyên nhân khiến doanh nghiệp lao đao nữa. Tuy nhiên, ở cả góc nhìn của chuyên gia hay chính người trong cuộc, thì khủng hoảng kinh tế không còn là tội đồ lớn nhất và duy nhất dẫn đến sự "gầy mòn" của doanh nghiệp.

Phó chủ tịch Hội Doanh nhân trẻ Khánh Hòa, một doanh nhân khá thành đạt nói với VnEconomy rằng, ông chẳng còn niềm tin để mở rộng sản xuất kinh doanh, dù công ty đang hoạt động không phải tốt mà là rất tốt.

"Một năm doanh nghiệp tôi phải tiếp đến 15 đoàn đến thanh tra, kiểm tra. Vừa rồi cơ quan thanh tra thuế moi lại chuyện của 7-8 năm trước, đã được chính thanh tra kết luận là đúng, để truy thu thuế của công ty. Số tiền chẳng quá lớn song tôi đã yên tâm chốt sổ chia lãi cho cổ đông rồi, một số cổ đông họ cũng rút vốn đi rồi, giờ lại truy thu. Vì thế, nộp thì cứ nộp chứ niềm tin tôi chả còn, vì tôi cứ đầu tư làm lớn đến một ngày đẹp trời anh lại đến bắt truy thu thuế thì biết kêu ai", ông kể.

Một chuyện nữa cũng khiến ông thấy nản là mang căn nhà đứng tên ông góp vốn cho công ty, theo Luật Doanh nghiệp thì không phải đóng thuế thu nhập cá nhân và thuế trước bạ, nhưng Sở Tài nguyên và Môi trường nói theo Luật Đất đai thì phải đóng thuế. "Gửi công văn lên sở thì êm ru không trả lời gì hết, vậy tôi còn mở rộng sản xuất kinh doanh làm chi?", ông thở dài.

Sự vô cảm của cơ quan quản lý nhà nước, theo một vị phó chủ tịch khác của Hội Doanh nhân trẻ Khánh Hòa còn nằm ở việc động viên khích lệ tinh thần qua khen thưởng doanh nhân tiêu biểu. Trong khi doanh nghiệp nộp thuế tăng, lương thưởng cho người lao động cũng tăng... thì không thấy đâu, mà rốt cuộc chỉ thấy doanh nghiệp nhà nước lên nhận giải.

Tuy nhiên, tâm lý co cụm, gần như không mở rộng sản xuất kinh doanh của mấy trăm hội viên Hội Doanh nhân trẻ của tỉnh ven biển cũng có tiếng là năng động này không hẳn vì những câu chuyện cụ thể như vậy.

Lãi suất cũng đỡ, lạm phát cũng khá nhiều, nhưng nhìn điều hành vĩ mô khiến doanh nghiệp hoang mang và thiếu lòng tin vì chả biết lãi suất cao và lạm phát khủng quay trở lại lúc nào, và doanh nghiệp lại "chết" tức tưởi, bị "rắn cắn" một lần ai cũng sợ, nhiều doanh nhân có chung nhận xét khi trao đổi với VnEconomy.

Một dự cảm không mấy sáng sủa và tâm lý thế thủ cũng xuất hiện trong hầu hết các trao đổi của VnEconomy với nhiều doanh nhân ở địa phương khác.

“Càng ngày, những khó khăn của cộng đồng doanh nghiệp càng bộc lộ rõ hơn. Doanh nghiệp đang chịu đựng và ra sức chống chọi với những sụt giảm doanh số, lợi nhuận, thậm chí tài sản và đặc biệt đối phó với cân đối dòng tiền mặt cho sản xuất kinh doanh. Cội nguồn của những khó khăn và mất mát của doanh nghiệp hiện nay là hậu quả của điều hành kinh tế vĩ mô, cộng thêm với những liên minh tiền - quyền làm cho tài sản của doanh nghiệp bị móc túi mà không kêu được. Có những phương thức bòn hút tiền của nền kinh tế, của doanh nghiệp một cách êm ái mà chỉ cần một vài quyết định hành chính đơn thuần. Tiền của ấy chảy về đâu?”, một giám đốc có quan hệ khá rộng trong cộng đồng doanh nghiệp tâm tư qua e-mail.

Nhận xét của vị doanh nhân này có lẽ đã động chạm đến một nghịch lý rất nhức nhối hiện nay. Đó là trong khi đa số doanh nghiệp còi cọc đi, thì các nhóm lợi ích lại lớn lên rất nhanh và của cải của một số quan chức liên quan cũng phình to, theo nhận xét của không ít chuyên gia kinh tế.

Kết quả của nhóm nghiên cứu Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng được công bố trên nhiều phương tiện truyền thông mới đây đã chỉ ra rằng đang có hiện tượng lợi ích cục bộ ở nhóm cán bộ thoái hóa trong các cơ quan quản lý kinh tế của Nhà nước. Thay vì sử dụng quyền lực nhà nước để giữ trật tự, kỷ cương thì họ lại sử dụng quyền lực của nhóm để ăn chia với doanh nghiệp. Trong khi đó, doanh nghiệp nhà nước có vị trí đặc biệt, vừa độc quyền, vừa quản lý tài sản khổng lồ, vừa tự chủ rộng rãi… lại không đi kèm trách nhiệm giải trình cao, nên nhiều doanh nghiệp nhà nước là đầu mối để nhiều quan chức thiết lập các đường dây vụ lợi cho mình.

Và, nhiều chuyên gia kinh tế đã không thể không sốt ruột khi nhìn vào vòng luẩn quẩn, rằng chính “các đường dây vụ lợi đó” đang là lực cản rất lớn cho quá trình tái cơ cấu nền kinh tế. Mà chậm tái cơ cấu cũng đồng nghĩa với cơ hội hồi sinh cho cộng đồng doanh nghiệp càng trở nên mong manh.

Trong khi, những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, theo nhận xét của Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu và quản lý kinh tế Trung ương Nguyễn Đình Cung, thì cách làm vẫn là “Nhà nước dẫn dắt”, “quan chức nhà nước dẫn dắt”, vì lợi ích của một nhóm doanh nghiệp chứ không phải toàn nền kinh tế.

Ngay cả câu chuyện đang rất thời sự là xem xét giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thì ở hội thảo vừa diễn ra hôm 11/4, một số vị chuyên gia cũng cho rằng việc đưa ra hai mức thuế suất khác nhau (mức 20% cho doanh nghiệp nhỏ và vừa) đã tạo ra một sự phân biệt đối xử không cần thiết, khuyến khích việc phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, tạo ra một nền kinh tế nhỏ lẻ, sức cạnh tranh không cao.

Đó có lẽ cũng là một phần câu trả lời cho câu hỏi, doanh nghiệp Việt vì sao không lớn được?

Tác giả: Nguyên Thảo - Nguồn: VnEconomy
Tin bài khác:

Thursday, April 11, 2013

Cơ hội WTO đi qua, ngổn ngang ở lại

[Thư viện marketing - KTVN] Hơn sáu năm đã trôi qua kể từ ngày Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Từng ấy thời gian nay nhìn lại cũng đủ để nói rằng Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội tận dụng tư cách thành viên WTO, một phần do cái tâm thế “ăn xổi, ở thì” ngay sau khi gia nhập.

Rất nhãn tiền

Theo báo cáo “Đánh giá tổng thể tình hình kinh tế xã hội Việt Nam sau năm năm gia nhập WTO” mà Bộ Kế hoạch và Đầu tư vừa mới công bố, tình hình kinh tế Việt Nam giai đoạn 2007-2011, tức năm năm sau khi gia nhập WTO thua sút giai đoạn 2002-2006, tức năm năm trước khi vào WTO, về nhiều mặt. Từ xuất khẩu, nhập khẩu, GDP đến đầu tư toàn xã hội... tất cả đều có mức tăng trưởng kém hơn trước.

Việt Nam chính thức gia nhập WTO vào tháng 1-2007. Sự hào hứng của giới đầu tư nước ngoài và dân kinh doanh trong nước đã tạo ra những kỷ lục ngay trong năm đó. Tổng dư nợ tín dụng của nền kinh tế tăng kỷ lục ở mức 53,9% theo giá thực tế. Nhìn lại mức tăng chỉ vài ba phần trăm hiện nay mới thấy đây là con số khó tưởng tượng nổi. Mức tăng tín dụng này đã phần nào biến tiền ảo thành tiền thật.

Trước khi vào WTO, giá đủ loại tài sản ở Việt Nam đã tăng vọt. Chủ các công ty đang làm ăn bình thường bỗng một hôm thức dậy thấy tài sản của mình được định giá gấp 5, 10 lần (mà từ phổ biến lúc đó gọi là 5 chấm, 10 chấm). Vào WTO, quả bong bóng tài sản này càng phình to rất nhanh. Không hiếm công ty niêm yết trên sàn có giá cổ phiếu gấp mấy chục lần mệnh giá như FPT (665.000 đồng), SJS (728.000 đồng), ACB (292.000 đồng)...

Tiền ảo trên sàn chuyển sang tiền ảo bất động sản, giá nhà đất tăng vọt từng ngày, từng giờ, làm ai nấy đều “phấn khởi” vì biến thành tỉ phú trong chốc lát. Sự giàu có trên sàn chứng khoán hay địa ốc dù sao cũng là ảo (trừ phi bán đi cho người khác) nhưng định giá cho nó thì không ảo chút nào. Và dựa trên sự định giá cao ngất đó, ngân hàng đã cho vay vô tội vạ trong khi vẫn tưởng mình đang cầm cái chuôi trong tay là vật thế chấp đang lên giá đều đều. Tín dụng đã biến tiền ảo thành tiền thật, đổ vào nền kinh tế là thế.

Xã hội giàu lên nên nhập khẩu tăng vọt đến 40% trong năm 2007 (lại một kỷ lục mới), nhập siêu hàng hóa tăng mạnh, đạt 14,2 tỉ đô la vào năm 2007 và 18,0 tỉ đô la năm 2008. Thế nhưng đồng tiền vẫn không hề mất giá; thậm chí còn lên giá trong một thời gian từ tháng 10-2007 đến tháng 4-2008. Đó là bởi dòng tiền nước ngoài chảy mạnh vào Việt Nam trong năm 2007 ngay sau khi có tin Việt Nam trở thành thành viên WTO: vốn đầu tư trực tiếp tăng kỷ lục đến 93,4% so với năm trước (5,6 tỉ đô la); vốn gián tiếp cũng đổ vào đến 6,5 tỉ đô la. Cán cân tổng thể thặng dư đến 10,2 tỉ đô la. Một kỷ lục khác của năm này là mức đầu tư toàn xã hội tăng đến 46,5%. Tất cả những yếu tố đó đã giúp GDP có mức tăng kỷ lục trong năm 2007 - 8,5%, cao nhất so với 10 năm trước đó.

Và ở đây đã xuất hiện phép thử rất nghiệt ngã: nếu mọi người bình tĩnh tận dụng hết những lợi thế vừa mới xuất hiện trong năm 2007, năm đầu tiên sau gia nhập WTO để đi vào sản xuất kinh doanh theo thế mạnh của từng người, tận dụng cơ hội để mở rộng thị trường xuất khẩu, để đầu tư chiều sâu, thâm nhập thị trường nội địa thì mọi chuyện đã khác. Đằng này bong bóng tài sản hào nhoáng quá, sức hút của sự làm giàu trong chốc lát nhờ chứng khoán, địa ốc, ngân hàng lớn quá, mọi người bỏ sở trường nhảy vào sở đoản và mọi chuyện hư sự từ đây.

Thị trường chứng khoán là nơi phản ánh rõ nét cơ hội đã vụt qua như thế nào: sau khi đạt đỉnh 1.170 điểm vào đầu năm 2007, thị trường đã lình xình lên xuống, rồi nhanh chóng tụt dốc từ tháng 10-2007, xuống đáy còn 235 điểm vào tháng 2-2009.

Nhưng như những con bạc khát nước, cộng với gói kích cầu của Chính phủ lên đến xấp xỉ 9 tỉ đô la Mỹ vào năm 2009, mọi người, kể cả các doanh nghiệp nhà nước vẫn lao vào cuộc chơi: đầu tư vào địa ốc nhờ mối quan hệ với chính quyền địa phương và làm sân sau cho các ngân hàng thương mại; đầu tư tài chính vào các công ty con, công ty cháu; hùn vốn mở ngân hàng, tiếp tục cho vay vô tội vạ. Khủng hoảng tài chính thế giới bùng phát cùng thời điểm làm tình hình chuyển biến nhanh, sự suy thoái ngày càng hiển hiện.

Hậu quả thì ai cũng rõ: Lạm phát tăng liên tục, đạt đỉnh 28,3% vào tháng 8-2008; nợ xấu bùng phát mà con số chính thức cho đến nay vẫn chưa xác định; các tập đoàn kinh tế nhà nước lớn như Vinashin, Vinalines đổ vỡ; thị trường địa ốc đóng băng, thị trường chứng khoán không hồi phục nổi; hàng loạt doanh nghiệp tư nhân phá sản, ngưng hoạt động. Đau nhất là nhận xét của báo cáo: “Dường như gia nhập WTO chưa mang lại lợi ích đáng kể đối với tăng trưởng xuất khẩu, hoặc doanh nghiệp nước ta chưa tận dụng được đáng kể cơ hội mới từ các nền kinh tế thành viên WTO”. Tổng quát hơn, cũng theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chất lượng tăng trưởng kinh tế giai đoạn năm năm sau WTO giảm sút hơn nhiều so với năm năm trước WTO.

Năm năm tới

Lúc nào nhìn lại cũng dễ hơn nhìn tới. Nhưng có một điều có thể đoan chắc, tư cách thành viên WTO không gây ra những điều nói trên: nó chỉ là chất xúc tác, đẩy nhanh quá trình phát triển nếu đi đúng hướng và đẩy nhanh xuống vực suy thoái nếu chọn sai con đường. Thứ hai, chúng ta đang ở giai đoạn giải quyết hậu quả nên chưa thể nói chắc tương lai năm năm sắp tới sẽ như thế nào.

Tuy nhiên một số xu hướng cũng đã dần dần hình thành khá rõ nét: Trong khi khu vực trong nước đang lao đao vì hậu quả chạy theo bong bóng thì khối đầu tư nước ngoài đã có những sự bứt phá ngoạn mục, tiếp tục tận dụng được cơ hội WTO từ phía họ. Dần dà những cam kết của Việt Nam như mở cửa thị trường ngân hàng, tài chính, logistics đã được nhà đầu tư nước ngoài nắm lấy: các ngân hàng và tổ chức tài chính nước ngoài chiếm thị phần ngày càng lớn; xuất khẩu của doanh nghiệp FDI ngày càng tăng trong khi trong nước lại đang giảm.

Cũng do cam kết giảm thuế nên một số nhà đầu tư nước ngoài từ bỏ việc sản xuất tại Việt Nam cho thị trường Việt Nam (để tận dụng ưu đãi thuế trước đây) mà chuyển sang nhập khẩu (vì chênh lệch thuế không còn đáng kể nữa). Ngược lại cũng một số doanh nghiệp FDI khác chọn Việt Nam làm cơ sở sản xuất cho dây chuyền tiêu thụ toàn cầu của họ, đúng y bài bản của việc tận dụng đúng cách WTO.

Riêng nước ta, cho đến bây giờ vẫn còn loay hoay tìm một chiến lược hậu WTO mà trong nhiều trường hợp lại thất bại. Lấy ví dụ, để chuẩn bị cho việc gia nhập WTO, Việt Nam tham gia Công ước Berne, các nhà xuất bản đã biết mua bản quyền thay vì dịch lậu. Nhưng cũng từ đó mới có chuyện cân nhắc giá rẻ, nhiều nhà xuất bản đã quay sang mua bản quyền từ Trung Quốc. Thế là nảy sinh vấn nạn chất lượng sách, sách in cờ Trung Quốc, sách dạy tiếng Anh mà toàn nói chuyện văn hóa Trung Quốc... 

Cuộc khủng hoảng vừa qua cũng có mặt tốt của nó khi mỗi doanh nghiệp không còn hào hứng vô căn cứ như ngày xưa nữa, nay phải tự mình thiết kế chiến lược WTO cho mình.

Riêng ở tầm mức vĩ mô, cũng không thể kỳ vọng gì nhiều vì ngay chính đề án tái cơ cấu nền kinh tế vừa mới ban hành cũng đã nhận được nhiều góp ý, đòi sửa lại nhiều điều, thậm chí là viết lại.

Chỉ biết có những bài học từ cuộc khủng hoảng mà cho đến nay tính thời sự vẫn còn nóng hổi. Ví dụ, giảm mức tăng tín dụng là tốt để giới ngân hàng từ từ xử lý những năm tháng nôn nóng cho vay tràn lan, có lúc có ngân hàng cho vay đến 250% vốn huy động. Tại sao cứ khăng khăng đòi ngân hàng phải cho vay ồ ạt, phải tăng tín dụng lên nhanh, phải giảm lãi suất khi tài chính chưa vững?

Hay ví dụ, để tăng xuất khẩu, không chỉ tập trung tìm cách tăng sản lượng mà còn phải nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu. Thay vì xuất thô titan, hãy đầu tư xây dựng nhà máy chế biến để tăng giá trị hàng xuất khẩu. Công cụ trong tay Nhà nước là thuế, đánh thuế cao nguyên liệu xuất thô và khuyến khích giảm thuế nếu xuất hàng tinh chế. Xét ở góc độ này, câu trả lời nên ứng xử như thế nào với khoáng sản bauxite từng gây nhiều tranh cãi e đã rất rõ - để đó cho con em khai thác và chế biến trong tương lai chứ không xuất thô và gánh chịu lỗ lã như bây giờ.

Có lẽ câu nói của Adam Smith, nhà kinh tế kinh điển nổi tiếng, nay càng thấm thía hơn cả: “Sự thịnh vượng của thế giới không phải được mua bằng vàng hay bạc - nó được tạo ra bởi lao động” - đơn giản vậy thôi.

Tác giả: Nguyễn Vạn Phú - Nguồn: TheSaiGonTimes
Tin bài khác:

Wednesday, April 10, 2013

TS Lê Đăng Doanh: "Ra rả nói tái cấu trúc nhưng không nêu ai phải làm"

[Học marketing] "Thất vọng về việc thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế dù Đề án được xây dựng và phê duyệt nhưng đó chỉ giống như bản tập hợp nhiệm vụ, chỉ ra đầu việc chứ chưa chỉ ra làm thế nào, ai làm, tiền lấy ở đâu… Lực cản từ lợi ích nhóm đã thể hiện quá rõ ràng".

TS Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương đã chia sẻ với báo Đất Việt về Đề án tổng thể tái cấu trúc nền kinh tế sau khi kết thúc Diễn đàn kinh tế mùa xuân 2013.
Ai cũng thấy lợi ích nhóm biểu hiện rõ quá


PV: - Thưa Tiến sĩ, được biết ông vừa tham dự Diễn đàn kinh tế mùa xuân 2013. Tại đây nhiều ý phát biểu khá gay gắt cho rằng Việt Nam khó mà tái cấu trúc được vì lực cản quá lớn từ nhóm lợi ích. Vậy lực cản đó biểu hiện như thế nào, thưa ông?

TS Lê Đăng Doanh: - Lực cản đã thể hiện quá rõ ở chỗ cho đến nay Đề án tái cấu trúc đã được thông qua nhưng chưa thấy làm gì cả. Mọi người đều thấy thất vọng. Ngay cả việc thực hiện tái cấu trúc ở các ngân hàng cũng rất chậm. Đầu tư công đến nay vẫn chưa có đề án. Nếu không có lực cản phải làm từ lâu chứ sao lại như vậy?

Đó là những điều mà bất cứ một người nào cũng có thể thấy và không cần phải bàn gì thêm.

Một lực cản khác rất rõ đó là bất động sản. Rất nhiều người đòi phải có gói cứu trợ. Đến khi có ý kiến nói rằng không cần phải cứu trợ thì phản đối nhao nhao lên. Trong khi đó người nông dân gặp khó khăn, hạn hán, bão lũ, đói nghèo nhưng đâu thấy có ai nói cứu trợ cho họ, mặc dù con số này rất đông.

Điển hình như các doanh nghiệp Nhà nước cho rằng phải phá sản, không thể cứu được nhưng đến nay vẫn không thấy doanh nghiệp Nhà nước nào tuyên bố phá sản.

Vinashin hứa tái cấu trúc nhưng cũng không thấy động thái tích cực. Từ năm 2008 ban tái cấu trúc hứa rằng đến năm 2013 sẽ có lãi và trả hết nợ. Thế nhưng đến nay Vinashin cũng không thấy lãi đâu.

Rồi đến Vinalines cũng vậy. Không thấy lãi đâu. Nhưng thiệt hại này ai chịu?

Từ đây có thể thấy, lợi ích nhóm chi phối rất nhiều đến công cuộc tái cấu trúc, từ khi hình thành chính sách đến việc thực hiện.

Tại sao không ra được nghị quyết về đầu tư công? Là bởi vì không ai muốn cắt giảm đi cái gì cả mặc dầu ngân sách hiện nay đang rất khó khăn.

Ngoài ra, các biểu hiện khác tinh vi hơn ví dụ như hiện tượng độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước nhưng lại không có cơ chế nào giám sát việc này.

Tất cả những điều này làm cho người ta khẳng định lợi ích nhóm đang là lực cản của công cuộc tái cấu trúc hiện nay.


Chỉ nêu cho có


PV: - Nói như vậy là khái niệm ‘tái cấu trúc’ chỉ để nói còn việc thực hiện thế nào, có làm hay không lại không điều gì có thể can thiệp mạnh được đúng không, thưa ông?

TS Lê Đăng Doanh: - Đến thời điểm này thì đúng là như vậy. Đề án tái cấu trúc tại Diễn đàn kinh tế mùa xuân 2013 đã được phân tích rằng cần phải có lộ trình. Phải làm rõ lộ trình thế nào, cái gì làm trước, cái gì làm sau, chi phí bao nhiêu chứ không thể tay không bắt giặc được.

Thế nhưng trong Đề án không nhắc gì đến chi phí và cũng không biết được đơn vị nào sẽ làm trước, đơn vị nào làm sau. Ở đây giống như bản tập hợp nhiệm vụ, chỉ ra đầu việc chứ chưa chỉ ra làm thế nào, ai làm, tiền lấy ở đâu… thì không nói.

Chính như vậy, những người đọc Đề án này đều thấy cứ như thế này chỉ nêu lên để gọi cho là đã đề cập đến việc tái cấu trúc mà thôi.

Do vậy, muốn tái cấu trúc kỳ này các chuyên gia kinh tế đã cũng xác định phải chịu đau. Không thể tất cả mọi người cùng đi ‘ăn cỗ’ cả mà phải có người, nhóm người chấp nhận chịu thua thiệt đi một chút.

PV: - Theo cá nhân ông phải làm như thế nào thì mới có thể thực hiện được tái cấu trúc nền kinh tế?

TS Lê Đăng Doanh: - Theo tôi phải có một Ủy ban tái cấu trúc do Thủ tướng hoặc ai đó đứng đầu, cứ hàng tuần họp lại đôn đốc. Nhưng hiện nay không có ai làm việc này. Vậy mà suốt ngày khắp nơi các diễn đàn ra rả nói về ‘tái nọ, tái kia’, ai cũng nói ‘tái’ mãi mà không thấy ‘chín’. Cứ như thế này không biết tái đến bao giờ.

Tôi cho rằng phải làm rõ trách nhiệm của từng người, ai phải làm cái gì, và bao giờ làm. Nếu không làm rõ sẽ hết sức khó.

PV: - Vậy người đó sẽ là ai, thưa Tiến sĩ? Như ý kiến của một chuyên gia kinh tế rằng cách xử lý công việc của chúng ta là quyết định tập thể, trách nhiệm cũng tập thể. Cứ cái gì không làm được thì đưa ra bàn. Theo ông thì sao?

TS Lê Đăng Doanh: - Tôi cũng nói rằng phải có người chịu trách nhiệm cá nhân. Nếu Chính phủ nhận ra và quyết tâm làm thì tốt còn nếu không Quốc hội phải đứng ra làm.

Về tái cấu trúc doanh nghiệp Nhà nước thì tôi đã nói nhiều lần là cơ chế quản lý của doanh nghiệp Việt Nam rất kém, nhưng không phải là không khắc phục được.

Đi Trung Quốc, tôi được Phó thủ tướng phụ trách công nghiệp của Trung Quốc cho biết là đã áp dụng chế độ quản lý theo hiệu quả, nhưng doanh nghiệp nhà nước bên đó cũng còn rất nhiều vấn đề.

Hỏi thế làm thế nào để khắc phục thì ông ấy cho biết là yêu cầu một nhóm các nhà khoa học, các chuyên gia khảo sát và đề ra hệ tiêu chí, như phải tăng năng suất bao nhiêu, đổi mới công nghệ thế nào, lương thưởng bao nhiêu… sau đó công khai đăng lên. Ai có phương án thì gửi đến, rồi mời hội đồng nghe báo cáo, bỏ phiếu kín, người được phiếu cao nhất thì bổ nhiệm làm lãnh đạo 3 năm. Năm đầu làm không tốt thì không lên lương, năm thứ hai vẫn không làm được thì hủy hợp đồng không cho làm nữa và thay bằng người khác.

Với cách làm như thế này, Việt Nam khó mà áp dụng được vì bệnh nể nang, thành tích.

Do vậy không riêng gì cá nhân tôi mà nhiều chuyên gia kinh tế cũng không có niềm tin vào việc tái cấu trúc thành công.

Xin trân trọng cảm ơn Tiến sĩ!

Bích Ngọc (thực hiện) - Nguồn: Đất Việt Online
Tin Bài Khác:

Tuesday, April 9, 2013

"Nửa triệu tỷ đồng nợ xấu ngân hàng"

[Học marketing] Quy mô nợ xấu có thể vượt nửa triệu tỷ đồng nếu cộng cả những khoản nợ tiềm tàng, nợ được cơ cấu lại của Vinashin, Vinalines - theo tính toán của Tiến sĩ Trịnh Quang Anh.

Tại Diễn đàn kinh tế Mùa xuân đang diễn ra ở Nha Trang, phần lớn các diễn giả đều cho rằng vẫn nợ xấu vẫn chưa có con số thống nhất, trong đó không ít ý kiến hoài nghi về số liệu Ngân hàng Nhà nước công bố. Nợ xấu toàn hệ thống theo báo cáo từ các tổ chức tín dụng đến ngày 31/12/2012 là 120.000 tỷ đồng, chiếm 4,1% tổng dư nợ tín dụng. Còn theo công bố mới nhất của đại diện Chính phủ, quy mô tính đến cuối tháng 2/2013, đã giảm xuống còn khoảng 6% thay vì mức hơn 8,8% Thống đốc công bố năm ngoái.
Ông Trịnh Quang Anh cho rằng thực tế nợ còn "xấu" hơn rất nhiều. Trong cuốn kỷ yếu Diễn đàn kinh tế Mùa xuân năm 2013, Tiến sĩ Trịnh Quang Anh - Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Tập đoàn Đầu tư phát triển Việt Nam đưa ra những ước tính về quy mô nợ xấu hiện nay.

Theo ước tính của ông, nếu cộng cả những khoản nợ tiềm tàng, gồm nợ khoanh, nợ được cơ cấu lại theo Quyết định 780 và nợ được cơ cấu lại của Vinashin, Vinalines, tổng nợ xấu ước tính sẽ vọt tới tầm nửa triệu tỷ đồng. Con số này tương đương 18% tổng dư nợ tín dụng, gần 10% tổng tài sản toàn hệ thống hay khoảng 17% GDP danh nghĩa năm 2012. Con số nợ xấu thực của nhóm khách hàng doanh nghiệp Nhà nước tiếp tục được nhân lên nếu bóc tách phần nợ thực chất đã “chết” đang còn “ẩn nấp” trong nhóm “nợ cần chú ý” để hạch toán sang đúng nhóm nợ.

Bình luận về việc nợ dưới chuẩn giảm mạnh (hơn 2%) theo công bố mới đây của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước, Tiến sĩ Tô Ánh Dương cho rằng không loại trừ khả năng nhiều khoản đã được làm đẹp bằng những hợp đồng vay mới để trả nợ cũ quá hạn.

"Tỷ lệ nợ xấu giảm nhanh chỉ là giảm số liệu, không phải là bản chất, giảm thật sự. Nói cách khác, trích lập dự phòng rủi ro là một trong những biện pháp làm giảm nợ xấu phần nào trên bảng cân đối kế toán", ông Dương thẳng thắn cho biết. Trên thực tế, khi xử lý rủi ro bằng dự phòng không có nghĩa là khoản nợ đã được xóa cho khách hàng.

Các chuyên gia cũng đưa ra những số liệu theo chính ông gọi là "đáng sợ" về cơ cấu của nợ xấu. Theo ông Quang Anh, xét con số tuyệt đối, nợ xấu nằm chủ yếu ở nhóm ngân hàng thương mại Nhà nước, trước hết là Agribank rồi đến BIDV - chiếm tới gần 1/3 tổng nợ xấu toàn hệ thống. Tại khối cổ phần, nhóm ngân hàng yếu kém nằm trong diện phải tái cơ cấu năm 2012 - chiếm tới gần 1/5 tổng nợ xấu toàn hệ thống (chưa tính Habubank do đã được sáp nhập vào SHB).

Một đặc điểm nữa về cơ cấu nợ xấu theo Tiến sĩ Tô Ngọc Hưng Giám đốc Học Viện Ngân Hàng là thống kê của Bộ Tài chính cho hay, các địa phương có công trình xây dựng cơ bản hiện nợ các doanh nghiệp liên quan đến dự án khoảng 90.000 tỷ đồng. "Đây là khoản nợ xấu phải thuộc trách nhiệm các địa phương xử lý, chứ không thể là các ngân hàng", ông Hưng cho biết.

Nợ xấu cho vay đầu tư, kinh doanh bất động sản và chứng khoán (trước đây được tính vào lĩnh vực phi sản xuất, bị hạn chế tăng trưởng tín dụng) chỉ chiếm 8% tổng nợ xấu. Theo nhiều diễn giả, đây là một con số rất đáng ngờ. "Sự thực, rất nhiều khoản cấp tín dụng dưới các danh nghĩa khác nhau, được 'luồn' vào lĩnh vực bất động sản và chứng khoán hay có liên quan đến lĩnh vực phi sản xuất này. Nợ xấu từ số dư nợ cho vay trên, hiển nhiên sẽ được che giấu kỹ nhất", ông Quang Anh cho biết.

Theo Chủ tịch Ủy ban Kinh tế Quốc hội Nguyễn Văn Giàu, số liệu mà ông Quang Anh đưa ra chưa rõ căn cứ vào cơ sở pháp lý nào. Cách đây 3 hôm, theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, nợ xấu theo hạch toán mà các tổ chức tín dụng báo cho Ngân hàng Nhà nước đến nay là 4,46%. Diễn biến cao nhất của nợ xấu được hạch toán là vào quý III/2012, ở mức 4,93%.

Ông Giàu cho rằng, việc đánh giá và phân loại tín nhiệm cũng như công bố thông tin nằm trong thông lệ quốc tế và các quy định chặt chẽ của pháp luật Việt Nam, chứ không phải nhìn ở góc độ này hay khía cạnh khác đánh giá.
Tác giả: Thanh Thanh Lan - Bạch Hường - Nguồn:  VnExpress

Tin bài khác:

Bất Động Sản khó khăn có "lỗi" của chính sách

[Thư viện marketing] Những nguyên nhân khiến thị trường bất động sản trầm lắng dưới góc nhìn của Viện Kinh tế xây dựng...Viện Kinh tế xây dựng (Bộ Xây dựng) vừa có một bản báo cáo về tình hình thị trường bất động sản và những nguyên nhân khiến thị trường trầm lắng như hiện nay.

Theo cơ quan này, sau một thời gian phát triển mạnh và có đóng góp đáng kể cho phát triển kinh tế, thị trường bất động sản rơi vào giai đoạn khó khăn kéo dài do tác động của tình hình kinh tế suốt từ năm 2009 đến nay. Sự sụt giảm về giá cả xảy ra ở hầu hết các phân khúc của thị trường; số lượng giao dịch giảm mạnh, thậm chí nhiều dự án không có giao dịch và hiện vẫn chưa có dấu hiệu phục hồi.

Nhiều doanh nghiệp, kinh doanh dịch vụ bất động thực sự gặp khó khăn, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiềm lực tài chính hạn chế, khi thị trường suy thoái, không bán được hàng, không có khả năng trả nợ ngân hàng.

Thị trường bất động sản năm 2012 trầm lắng không chỉ để lại hậu quả là hàng vạn doanh nghiệp báo lỗ, ngừng hoạt động, thậm chí là giải thể mà còn cả một lượng hàng tồn kho rất lớn và gánh nặng cho năm 2013.

Số liệu từ cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, cho thấy trong năm 2012 đã có 680 doanh nghiệp với ngành nghề kinh doanh chính là bất động sản đăng ký giải thể, ngừng hoạt động (con số của năm 2011 thống kê được là 576 doanh nghiệp). 

Còn nếu tính cả những doanh nghiệp có lĩnh vực hoạt động có liên tới bất động sản thì chắc chắn con số này sẽ còn cao hơn rất nhiều, chiếm phần không nhỏ trong tổng số 54.261 doanh nghiệp tuyên bố dừng hoạt động và giải thể của năm 2012. Bởi theo số liệu thống kê của Bộ Công Thương, xét theo lĩnh vực và ngành nghề hoạt động kinh doanh chính thì tỷ lệ các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản và doanh nghiệp công nghiệp sản xuất sản phẩm vật liệu xây dựng phải dừng hoạt động trong cả năm 2012 tăng 20% so với năm 2011. 

Theo Viện Kinh tế xây dựng, ngoài những nguyên nhân do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, phát triển tự phát, thiếu sự quản lý chặt chẽ, thiếu quy hoạch, cơ cấu hàng hóa phát triển mất cân đối,... thì những tác động từ các chính sách cũng ảnh hưởng không nhỏ tới thị trường.

Cụ thể, các chính sách tiền tệ, quản lý đất đai có thể giúp thanh lọc, làm cho thị trường bất động sản phát triển bền vững hơn, nhưng cũng đã hạn chế dòng tiền vào bất động sản, khiến thị trường trầm lắng thời gian qua.

Nổi lên trong đó là sự tác động mạnh mẽ từ các chính sách của Chính phủ, cụ thể là thực hiện Nghị quyết 11 nhằm ổn định kinh tế vĩ mô đó là chính sách thắt chặt tín dụng, cắt giảm chi tiêu công,... đã làm giảm nguồn cung cho thị trường, làm giảm tiến độ thi công của các dự án đang thi công vì khó tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng.

Bên cạnh đó, một số chính sách đã ban hành thời gian gần đây và những bất cập của nó tác động đến thị trường bất động sản, điển hình là việc ban hành Nghị định 69/2009. Theo đó, chủ đầu tư phải mua đất theo giá tự thỏa thuận, hoặc thương lượng mức đền bù cho người đang sử dụng đất sát với giá thị trường.

Trong khi đó, việc phê duyệt và cấp phép đầu tư tràn lan, thiếu kiểm soát vẫn còn tồn tại, tạo nên sự hỗn loạn thông tin, dẫn đến khủng hoảng thừa các sản phẩm dưới chuẩn và thiếu những sản phẩm đạt chuẩn. Thêm vào đó, giá đất do Nhà nước quy định chỉ bằng 30-60% so với thị trường. Điều này cho thấy Nhà nước vẫn chưa tổ chức được hệ thống theo dõi giá đất trên thị trường.

Tiếp đến là Nghị định 71/2010 quy định chi tiết Luật Nhà ở ra đời đã tiếp tục khiến chủ đầu tư và người mua đều e ngại, đặc biệt về tính pháp lý của giao dịch dưới hình thức hợp đồng góp vốn.

Cơ quan của Bộ Xây dựng cũng cho rằng, cơ quan quản lý chính sách tiền tệ, mà cụ thể là Ngân hàng Nhà nước cũng góp phần không nhỏ, khi ban hành Thông tư 13/2010 với việc nâng hệ số rủi ro đối với cho vay bất động sản từ mức 150% lên 250%, đã không khuyến khích ngân hàng cho vay kinh doanh bất động sản. 

Bên cạnh đó, với việc thu hẹp tín dụng đối với lĩnh vực phi sản xuất của ngành ngân hàng, thì việc cả chủ đầu tư lẫn khách hàng sẽ phải đối mặt với khó khăn thiếu vốn là một điều hiển hiện. Tiếp đó, hàng loạt quy định nhằm kiềm chế lạm phát được phát đi từ Nghị quyết 11, qua đó đã thắt chặt tiền tệ đã làm cho lãi suất thị trường tăng vọt, chi phí vốn của các doanh nghiệp bất động sản tăng cao.

Đối với chính sách tài khóa, Chính phủ tăng thu ngân sách, giảm bội chi ngân sách, rà soát cắt giảm đầu tư công. Với nội dung này, nhiều dự án đầu tư của Nhà nước bị đình hoãn, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của thị trường bất động sản.

Nhưng "cú sốc" lớn nhất đối với tín dụng bất động sản đó chính là sự ra đởi của Chỉ thị 01/CT của Ngân hàng Nhà nước, trong đó quy định tỷ trọng tín dụng phi sản xuất của tất cả các ngân hàng sẽ giảm về mức tối đa là 16% vào ngày 31/12/2011. 

Theo Viện Kinh tế xây dựng, trên thực tế, vay để đầu tư bất động sản chiếm hơn 90% tín dụng phi sản xuất. Với quy định này nhiều ngân hàng buộc phải hạn chế cho vay đầu tư bất động sản, thậm chí phải tích cực thu hồi nợ để đảm bảo tỷ lệ theo quy định. Hệ quả là tín dụng bất động sản bị siết, nhiều dự án bị ngưng trệ, nhà đầu tư cũng rất khó vay tiền để mua nhà, nhiều doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản. 

Ngoài ra, thị trường bất động sản luôn gắn liền với sự phát triển của đô thị và cơ sở hạ tầng. Do vậy, với chủ trương thắt chặt đầu tư công, trong đó có nhiều dự án xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng của Chính phủ trong năm 2011, thì chắc chắn nhiều dự án đã và đang triển khai sẽ bị tác động.

Trước thực tế khó khăn của thị trường, để giúp doanh nghiệp bất động sản tháo gỡ khó khăn, Viện Kinh tế xây dựng đã đưa ra một số kiến nghị, đề trong đó có việc xem xét huy động vốn từ trái phiếu công trình để tập trung đầu tư vào cơ sở hạ tầng nhằm giải quyết tồn kho của các doanh nghiệp.

Cùng với đó là tiếp tục gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng cho các doanh nghiệp đầu tư - kinh doanh (bán, cho thuê, cho thuê mua) nhà ở; doanh nghiệp được nộp tiền sử dụng đất theo tiến độ thanh toán tiền bán hàng trong thời gian tối đa 24 tháng; giảm thuế suất thuế giá trị gia tăng đầu ra đối với hoạt động đầu tư, kinh doanh nhà ở xã hội xuống còn 5% để người mua nhà được hưởng lợi và tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm giá bán...

Viện cũng kiến nghị Nhà nước xem xét hỗ trợ bằng giải pháp sớm thực hiện đầu tư hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội tại các khu đô thị để đáp ứng nhu cầu của người mua nhà. Đồng thời, cơ quan chức năng cần thực hiện thanh tra kiểm toán tài chính của chủ đầu tư, và từ đó sẽ có biện pháp cụ thể đối với từng trường hợp.
Tác giả Bảo Anh - nguồn: VnEconomy
Tin bài khác: